Dịch vụ công
Ngay sau khi Chủ tịch Hồ Cẩm Đào và Thủ tướng Ôn Gia Bảo nhậm
chức năm 2002, Trung Quốc phải đối mặt với nạn dịch SARS, sự kiện cho
thấy rõ mười mươi hệ thống y tế của nước này đang lâm vào khủng hoảng.
Trong quá trình tập trung cho phát triển kinh tế, từ năm 1978 chính phủ đã
bỏ qua những dịch vụ công như chăm sóc sức khỏe, giáo dục và bảo vệ môi
trường. Thay vào đó đầu tư của chính phủ tập trung vào việc mở rộng sản
xuất và tạo công ăn việc làm. Như một nhà bình luận Trung Quốc đã nói:
“Chúng ta chỉ trả lương bằng tiền thuế và tín dụng ngân hàng. Đây chính là
cái giá chúng ta phải trả để duy trì ổn định xã hội.” Trong khi đó, hạ tầng xã
hội như hệ thống y tế, giáo dục và bảo vệ môi trường được đầu tư rất ít.
Việc giải thể các hợp tác xã nông nghiệp đã xóa bỏ hết những trạm y tế
đơn sơ và những “bác sĩ chân đất” vốn một thời cung cấp những dịch vụ
chăm sóc sức khỏe cơ bản, và không để lại gì thế vào chỗ đó. Các bác sĩ và
bệnh viện bắt đầu đòi phí điều trị cao hơn và đuổi các bệnh nhân đi nếu họ
không có tiền trả. Đất nước xã hội chủ nghĩa này giờ đây là một trong những
nước có hệ thống y tế được tư nhân hóa nhất trên thế giới. Vị bộ trưởng y tế
thừa nhận rằng hệ thống y tế công cộng “không được tốt” và rằng Trung
Quốc “không thể kiểm soát sự lây lan của các nạn dịch lớn một cách hiệu
quả”. Một trong những thước đo vấn đề này là tỉ lệ tử vong trẻ sơ sinh ở
Trung Quốc từ năm 1990 đã giảm chậm hơn so với Ấn Độ hay các nước có
thu nhập trung bình khác mặc dù mức độ tăng trưởng thu nhập ở các nước
này thấp hơn nhiều.
Chi tiêu cho giáo dục chiếm 3,28% GDP năm 2003, ở dưới mức trung
bình 4,1% của các nước đang phát triển, và nhiều nông dân nghèo không đủ
khả năng đóng học phí. Mặc dù tỉ lệ tới trường ở cấp phổ thông trung học và
tỉ lệ biết chữ của Trung Quốc cao hơn mức trung bình của các nước đang