ngoài hết sức ưa chuộng. Chính thứ thổ nhưỡng màu đen độc đáo của đồng
bằng châu thổ sông Trọc Thủy đã hun đúc ra giống gạo hảo hạng cực phẩm
này, những cánh đồng mênh mông đời đời canh tác bên bờ sông Trọc Thủy,
trở thành vựa thóc nuôi dưỡng cuộc sống người Đài Loan. Tuy nhiên,
những mảnh ruộng phì nhiêu ngày nay, tất cả đều được khai khẩn từ những
bãi đất um tùm cỏ dại, rải đầy đá cuội.
Rốt cuộc đã trải qua bao nhiêu ngày tháng? Bao nhiêu mồ hôi xương
máu của người dân đã đổ xuống, để vùng đất cằn cỗi ven sông nhạt nhòa
nước ngập, đá cuội chất chồng có thể tốt dần lên, trở thành những thửa
ruộng phì nhiêu chuyên trồng lúa nước, rau màu?
Bao nhiêu tiền nhân đã lao động trên lòng sông, nhặt từng viên đá
cuội, dùng xe bò chở đi, để nó trở thành đất cát bồi. Đất bờ sông có thành
phần chủ yếu là cát, đầu tiên phải trồng các loại hoa màu chịu hạn như
khoai lang, lạc, mía…, theo lịch trình canh tác năm này qua năm khác,
không ngừng cho thêm phân bón, rồi tiếp tục nhặt những hòn đá cuội còn
sót lại, cải tạo chất đất, mới trở thành những bờ xôi ruộng mật ngày nay.
Ngày trước, khi chưa xây đê phòng hộ, mỗi lần mưa lũ, nước sông lên
to, ngập hết ruộng đồng, hoa màu thường không kịp thu hoạch, bị nước lũ
nhấn chìm hoặc cuốn trôi, bao nhiêu tâm huyết phó cho dòng nước, rồi một
lớp đá cuội hoặc bùn đất mới được phủ lên, lại phải cải tạo lại đất đai, việc
đó gian nan vất vả thế nào không nói mọi người cũng biết.
Lòng sông vùng hạ du sông Trọc Thủy ngày nay rộng khoảng 2km,
vẫn có không ít bà con cần mẫn, hàng năm vào dịp đầu xuân, mang theo tia
hy vọng rằng mùa mưa không đến nỗi đến quá sớm, ra khai khẩn những
cồn đất tương đối cao để trồng những cây trồng thích hợp với loại đất cát
như dưa hấu, ngô…, giành giật với nước sông từng tấc đất để canh tác, đó
chính là bức chân dung về khai khẩn đất trên lòng sông hàng trăm năm qua.