“Làm ơn làm phúc,” lão lên giọng. “Làm ơn làm phúc giúp lão già nghèo
cùng ba đứa cháu mồ côi miếng ăn manh áo. Và cả con chó bị bỏ rơi này
nữa.”
Mọi người cho rất hào phóng vì họ đang cảm thấy hơi hướng của Giáng
sinh. Những đồng xu rơi tới tấp vào mũ bê rê của lão lang thang.
Màn đồng ca xem ra rất thành công nên lão Armand chờ lượt thứ nhất đi
khỏi và lượt sau kéo đến xem trước quầy kính. Thấy đông đông lão lại bảo
bọn trẻ hát. Rồi lão lại cầm mũ bê rê đi gom tiền.
Việc này sẽ vẫn tiếp diễn thêm một lúc nữa nếu như người đàn ông trực tầng
kiêu kì không ra phía ngoài cửa hàng xem làm sao người ta bu lại cửa sổ
đông đến thế. Ông ta quắc mắt nhìn nhóm tứ tấu.
“Ði chỗ khác,” ông ta ra lệnh với một cái phẩy tay, mặt vênh lên trời.
“Không được ăn xin trước Louvre.”
Lão Armand chẳng thèm đôi co. Cái mũ bê rê của lão đã đầy những xu, lão
vơ lấy tuồn hết vào túi.
“Nào, bầy chim hoàng yến,” lão nói. “Mấy đứa giỏi lắm. Ta sẽ thưởng bánh
kếp cho.”
Lão dắt chúng vòng góc đường đến chỗ một ông người Breton đứng sau một
cái quầy làm bánh kếp trên hai tấm sắt tròn đen thui.
“Tôi lấy tạm một tá bánh trước đã,” lão nói, nhưng trước đó lão phải chìa
tiền ra cho ông người Breton thấy thì ông kia mới chịu đổ bột vào khuôn.
Ông kia chậm rãi làm từng cái bánh, chậm đến nỗi bọn nhóc tưởng sẽ chết
đói trước khi ông ấy làm xong được một tá. Hương vị còn thơm hơn cả mùi
hương trong Louvre nữa. Bánh kếp cái nào cái nấy to bằng cái bánh xe trượt
mà lại mỏng như tờ giấy. Ông người Breton phết bơ và mứt lên từng cái, sau