Thế là lão lại lóc cóc sang nơi khác. Lão chỉ dừng lại một lần xem một ông
đang kéo dây câu vì tưởng sẽ có một con cá to. Té ra chỉ là một chiếc giày
ướt sũng.
“Chà, hi vọng của người ta rồi ra đều thế cả, ông ạ,” lão Armand buồn rầu
bảo ông câu cá. Thế rồi lão sung sướng nhảy cẫng lên. “Cùng đôi với chiếc
giày trong xe của tôi,” lão reo. “Ðúng y rồi!”
Ông câu cá gỡ chiếc giày ra và đưa nó cho lão Armand. “Ô là la, thưa ông,”
lão lang thang nói, “chứng tỏ là đừng bao giờ từ bỏ hi vọng.”
Rốt cuộc lão lang thang cũng tìm được một cái gầm cầu vừa ý. Lão cẩn thận
trải tấm bạt như một người đàn ông của gia đình trải tấm thảm trong ngôi
nhà mới.
“Không ấm cúng bằng căn phòng con bé hoàng yến nó làm cho mình,” lão
thừa nhận. “Lạ là mấy đường kẻ đen đen trên nền bê tông thế mà cũng che
được gió lùa cơ đấy.”
Và đêm đó lão ngủ không yên giấc. Lão cứ nghĩ đến bọn trẻ. Chúng có đủ
ấm không? Chúng có thấy cô quạnh không? Lão cố giả bộ như mình đang
buồn vì cơn cớ gì khác. “Ðó là cây cầu của mình kia mà,” lão nói thành
tiếng. “Cái nhà ấy không có quyền đuổi mình ra khỏi tài sản của mình. Mình
phải trở lại đòi quyền của mình mới được.”
Sáng hôm sau thức giấc, lão Armand nhận thấy đêm qua tuyết nhẹ đã rơi.
Lão ngồi lên, dụi mắt nhìn ra bờ sông. Chỉ qua một đêm, Paris đã chuyển
thành màu trắng. Ðó là một cảnh tượng thật đẹp cho những ai đứng trong
phòng ấm mà nhìn qua cửa sổ. Nhưng bọn trẻ lúc này đang làm gì? Hẳn
chúng sẽ chơi trong tuyết đến chết cóng mất vì không có người lớn trông
chừng.
“Mình sẽ cho họ biết,” lão hậm hự. “Mình sẽ quay lại liền bây giờ để nói
cho ra nhẽ. Ðể xem có dám đuổi mình đi nữa không.”