hiện gương mặt vui vẻ của Triết.
Con chó tranh lao ra, rối rít vẫy đuôi với anh. Triết vuốt ve lên đầu nó, rồi
vỗ lên cái lưng nâu sẫm pha trắng của nó, hỏi tôi, “Tên nó là gì?”.
“Lộ Phong Thiền”, tôi đáp.
Anh cười ha hả, đọc lại tên nó một lượt, rồi làm một động tác tay tỏ y bái
phục đối với tôi. “Vừa Lộ, vừa Phong, lại vừa Thiền. Đúng là chỉ có em
mới nghĩ ra nổi”, anh nói.
Tôi không khỏi mỉm cười, mở rộng hai tay với anh. Anh sải bước vội đến
bên giường, ôm tôi rất chặt. “Good morning!”, anh cố tình dùng tiếng Anh
chào hỏi tôi, quả nhiên tôi cười rất to. Trong một ngôi nhà miền núi hẻo
lánh thuộc vùng Xuyên Tây này, được nghe một câu tiếng Anh chẳng khác
nào như đàn gẩy tai trâu, kì quái đến phát sợ.
Đột nhiên tôi nhớ ra điều gì, bắt anh bịt mắt lại, tôi muốn anh xem hai thứ.
“Cái gì thế?”, anh tò mò hỏi, nhưng tôi chỉ cười không đáp. Anh đành
ngoan ngoãn nhắm mắt lại. Tôi rút từ trong túi xách ra hai thứ tôi vẫn cất
kĩ: một là chiếc bật lửa nhặt được ở Thượng Hải, hai là chiếc mùi xoa trắng
nhặt được ở Đan Ba. Đây hẳn là những thứ anh không cẩn thận làm rơi
mất. Rồi tôi bắt anh mở mắt ra. Anh vừa nhìn thấy, đã kinh ngạc hỏi: “Sao
em có được những thứ này? Em lấy từ nhà mang đi sao?”.
Tôi lắc đầu: “Đều nhặt được trên đường”. Thấy anh có vẻ không hiểu, tôi
kể lại một lượt chuyện Lộ Phong Thiền phát hiện ra chiếc bật lửa cạnh gian
bán báo gần căn hộ chúng tôi ở Thượng Hải và chuyện tìm được chiếc khăn
tay trắng ở một con phố yên tĩnh nơi huyện thành Đan Ba ra sao.
“Thần kì quá, đúng là thần kì quá”, Triết không ngớt lẩm bẩm, tay cầm hai
món đồ, vẫn không ngừng quan sát con chó. Tôi đứng bên gật đầu, lòng
thầm nghĩ con chó này còn có một điểm càng thần bí hơn mà anh còn lâu
mới được biết.
Nhớ ra chuyện gì, tôi lục túi xách, lấy ra cuốn kinh của vị hòa thượng già
còn để lại, đưa anh xem. Anh lật vài trang, “Cái gì thế?”.
“Cũng phát hiện được ở bên đường”, tôi đáp và lấy lại cuốn kinh.
Anh rất hưng phấn ngắm tôi một lúc, rồi nói, “Đúng là mấy ngày không
gặp, em giờ đây thật bí hiểm”.