2007. Trong thời gian đó, sự gia tăng đầu tư trực tiếp và gián tiếp của nước
ngoài (FDI và FII) phối hợp với sự gia tăng đầu tư mạnh mẽ trong nước,
đặc biệt là đầu tư tư nhân đã tạo nên lực đẩy quan trọng thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế. Khủng hoảng toàn cầu năm 2008-2009 như một cơn bão lớn
làm lung lay các cấu trúc tài chính của các nền kinh tế Bắc Mỹ, Tây Âu và
các quốc gia công nghiệp phát triển khác khiến Việt Nam cũng chịu ảnh
hưởng suy thoái kinh tế phần nào. Nhưng vào thời điểm này của năm 2010,
chúng ta đã có thể nói đến kế hoạch phát triển kinh tế trong thời kỳ hậu
khủng hoảng. Trong vòng 25 năm, GDP của Việt Nam từ mức dưới 20 tỷ
đô la đã lên đến 85 tỷ đô la, kim ngạch xuất khẩu từ 1 hoặc 2 tỷ đô la lên
đến 64 tỷ đô la, đầu tư nước ngoài từ chỗ không có gì lên đến con số khó
tưởng tượng là 98 tỷ đô la, trong đó thực hiện trên 40 tỷ đô la.
MỘT CHỮ “MỞ” LÀM NÊN SỰ KỲ DIỆU
Nếu có thể tổng kết điều gì đã làm nên sự kỳ diệu của nền kinh tế Việt
Nam chỉ bằng một chữ thôi, bạn sẽ chọn chữ nào? Riêng đối với tôi, đó là
chữ “Mở”. Giống như chữ “Hỏa” mà Gia Cát Lượng và Chu Du đã chọn
lựa làm phương sách tấn công Tào Tháo để tạo nên chiến tích lịch sử Xích
Bích, mở đường cho thế tam phân thiên hạ thời Tam Quốc ở Trung Quốc,
chữ “Mở” ở Việt Nam là một phương lược kinh tế đúng đắn giúp giải
phóng nguồn nội lực tiềm tàng và dẻo dai của đất nước, đưa nền kinh tế
quốc dân vượt qua thời điểm bị suy kiệt gần như chạm đáy vào cuối năm
1985 để chuyển mình đi lên. Có những lĩnh vực kinh tế mà chữ Mở đã tạo
nên điều kỳ diệu như một chiếc đũa thần. Cuộc cải tổ hệ thống ngân hàng
vào năm 1989-1990, như nhận định của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt, là bước
đột phá quan trọng nhất làm thay đổi sâu sắc cục diện kinh tế đất nước, mở
đường cho những cánh cửa mở và những thành tựu lớn hơn trên những lĩnh
vực kinh tế khác và điều quan trọng là đã thúc đẩy nhanh tiến trình chuyển
đổi nền kinh tế Việt Nam từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường. Kể từ
ngày ban hành hai Pháp lệnh ngân hàng năm 1990, hệ thống ngân hàng mới