Tháng 3 năm 1920, Mỹ ấn định hai kế hoạch tác chiến: một
“Kế hoạch màu da cam” tác chiến với Nhật trên Thái Bình Dương,
là sự sửa đổi lần hai bản “Kế hoạch da cam” năm 1911, và “Kế
hoạch đỏ - da cam” tác chiến với Anh và Nhật trên Đại Tây Dương và
Thái Bình Dương. Qua kế hoạch tác chiến của hải quân Mỹ có thể
thấy việc có tồn tại đồng minh với Anh hay không chẳng những
ả
nh hưởng trực tiếp tới sự bố trí chiến lược của Mỹ và với sự so
sánh lực lượng của Mỹ tại vùng Thái Bình Dương, hơn nữa còn ảnh
hưởng tới địa vị chiến lược toàn cầu của Mỹ. Mỹ tất phải chia hạm
đội của mình ra sử dụng trên hai đại dương.
Trong báo cáo hàng năm làm trong thời gian 1922 - 1924, Vụ Kế
hoạch chiến tranh của Bộ Hải quân Mỹ đều có nhận định như sau:
Anh và Nhật vẫn là hai quốc gia có thể tranh giành quyền kiểm
soát biển với Mỹ, dẫn đến sự tồn tại điểm đối lập giao chiến giữa
Mỹ với hai quốc gia Anh, Nhật hoặc với một quốc gia. Hải quân Mỹ
chuẩn bị chiến tranh trước hết với Nhật, thứ hai là với Anh hoặc với
sự liên hợp Anh - Nhật. Xét tình hình quốc tế cuối thập niên 20 -
30 thế kỷ XX, đối tượng tác chiến có khả năng nhất của Mỹ vẫn
là Nhật, “chiến tranh màu da cam được coi là cuộc chiến có khả
năng xảy ra nhất”, “Da cam” cũng trở thành kế hoạch tác chiến
chủ yếu nhất của quân đội Mỹ. Trong hơn 10 năm hoạch định kế
hoạch này, tuy có mấy lần sửa chữa song nội dung chính của việc
chuẩn bị “đơn độc tiến hành một trận tấn công Nhật trên Thái Bình
Dương” thì vẫn không thay đổi.
Cuối thập niên 30 thế kỷ XX, Mỹ mới bắt đầu dần dần thay
đổi tư tưởng chiến lược. Tháng 2 năm 1938 Mỹ sửa đổi “Kế hoạch
da cam”, ngoài việc giữ tư tưởng cơ bản tác chiến tấn công Nhật
trên Thái Bình Dương vốn có, đã sơ bộ đánh giá sự đe dọa của Đức
và Ý đến từ bên kia bờ Đại Tây Dương. Tháng 2 năm 1939,
Roosevelt đề nghị Quốc Hội tăng cường cả thảy 16 căn cứ hải quân,