không biết mình làm gì từ 28% tăng lên 56%. Trong Thông điệp
Liên bang đầu tiên, Tổng thống Reagan thừa nhận trong số 10
người được hỏi ý kiến thì 6 người cảm thấy bi quan về tiền đồ
của mình. Trong vòng sơ tuyển Tổng thống tại bang New
Hampshire hồi tháng 2 năm 1980, Reagan xúc động nói: “Một số
người Mỹ lớn tuổi nhớ lại thời gian trước Thế chiến II, hồi ấy
người Mỹ ở mọi nơi trên thế giới, dù họ làm gì đi nữa, chỉ cần đeo
chiếc huy hiệu có quốc kỳ Mỹ thì họ có thể đi bất cứ nơi nào. Ngày
nay ngược lại, người Mỹ nảy sinh nguy cơ tín nhiệm và lòng tin, đánh
mất sự tôn trọng của bạn bè và kẻ địch; đây thực sự là một chuyện
buồn”. Phát triển là đạo lý muôn thuở, nếu bị động trong phát triển
thì sẽ đánh mất sự chủ động trong cạnh tranh.
Reagan nhậm chức Tổng thống Mỹ vào thời gian nước Mỹ đang ở
vào thoái trào, gặp nhiều khó khăn, có thể nói tình trạng nát bét như
tương, Tổng thống Reagan đã cố gắng tái tạo lại uy lực quốc gia,
chủ yếu tập trung công sức giải quyết các vấn đề trong nước, tăng
tốc phát triển, thông qua việc chấn hưng kinh tế và tăng cường lực
lượng quân sự để đạt mục tiêu chấn hưng sức mạnh quốc gia. Ông
áp dụng một loạt biện pháp chiến lược, đặc biệt là ngày 13 tháng 8
năm 1981 ký luật giảm thuế biên độ lớn, quyết định trong ba năm
sẽ giảm 25% thuế thu nhập. Luật này trở thành chất xúc tác cho sự
phục hưng và phồn vinh nền kinh tế Mỹ. Bắt đầu từ nửa cuối
năm 1982, chính phủ Reagan thực hành chính sách “ba cao”: thâm
hụt ngân sách cao, lãi suất cao, hối suất đồng USD cao, nhằm
kích thích sự phục hồi và phát triển kinh tế. Tháng 12 năm 1982,
kinh tế Mỹ đi ra khỏi đáy vực. Năm 1983, GDP Mỹ thực tế tăng
3,6%; năm 1984 kinh tế tăng trưởng 6,5%, là tốc độ tăng trưởng
cao nhất trong 30 năm gần đây. Tỷ lệ lạm phát trong ba năm hạ
xuống còn 3,9%, mức thấp nhất trong 17 năm. Trong hai năm đã
tạo ra 7,3 triệu việc làm. Reagan thi hành chiến lược tái chấn hưng
sức mạnh quốc gia, sức mạnh quân sự, dùng thực lực để tìm kiếm