nhập Afghanistan từ năm 1980 trở đi ngày càng được nhiều nước
ủ
ng hộ: năm 1986 được 122 nước tán thành, chỉ có 19 nước ủng hộ.
Trên mặt coi trọng sự chiếm lĩnh điểm cao đạo đức, nước Mỹ có
nhiều chỗ đáng chú ý. Từ chính sách ngoại giao theo chủ nghĩa lý
tưởng của Tổng thống Wilson, “bốn tự do lớn” của Roosevelt cho
đến ngoại giao nhân quyền của Tổng thống Carter, sức mạnh
mềm hình thái ý thức ở trong và ngoài nước của Mỹ đều có khả
năng cạnh tranh chiến lược. Chính sách ngoại giao Mỹ trong thời kỳ
Thế chiến I đã bao hàm nhân tố nhân quyền, Tổng thống
Wilson đưa ra chính sách ngoại giao theo chủ nghĩa lý tưởng, tuyên
truyền rộng rãi nước Mỹ không tìm kiếm lợi ích riêng, “chỉ bảo vệ
quyền lợi của loài người”. Điều đó đã coi sự tôn nghiêm của quốc
gia và cái gọi là nhân quyền là cơ sở quan trọng của chính sách Mỹ.
Nền ngoại giao chủ nghĩa lý tưởng do Tổng thống Wilson đề
xuất đã có ảnh hưởng quan trọng tới Tổng thống Roosevelt. Trong
Thông điệp Liên bang ngày 6 tháng 1 năm 1941, Roosevelt đề xuất
xây dựng an ninh tập thể và tìm kiếm “một thế giới có bốn loại tự
do cơ bản của loài người”, đó là: tự do ngôn luận và phát biểu ý kiến;
tự do dùng cách của mình để tôn thờ Thượng Đế; tự do không lo
thiếu thốn; tự do không lo sợ hãi. Ngày 9 tháng 8 năm 1941,
Roosevelt và Churchill ký “Hiến chương Đại Tây Dương”, trong đó
nhắc lại các nguyên tắc cơ bản nói trên: sau khi chiến thắng phát
xít, thế giới cần xây dựng hòa bình, làm cho nhân dân các nước an
cư lạc nghiệp, sống tự do, không phải lo sợ gì, không lo thiếu thốn.
Các văn kiện quốc tế sau này công bố như “Tuyên ngôn Liên Hợp
Quốc” và “Hiến chương Liên Hợp Quốc” đều nhắc lại các
nguyên tắc và điều văn liên quan tới nhân quyền cơ bản.
Sau chiến tranh, chính phủ Mỹ luôn luôn quan tâm vấn đề
nhân quyền, vì những cái đó liên quan tới giá trị quan của nước Mỹ
cũng như tới hình ảnh cùng địa vị lãnh tụ thế giới của Mỹ. Nhưng