phận của toàn nhân loại ra đánh cược. Nói về hai bên thắng thua
trong cuộc chiến tranh lạnh, cố nhiên bên thua thì thua thảm hại,
còn bên thắng thì sao lại không phải là thắng một cách thảm hại,
thắng sát nút!
Cái giá phải trả cho chiến tranh lạnh rất nặng nề. Không
những gây ra tình trạng mở rộng cuộc đấu tranh giai cấp trong
cộng đồng quốc tế mà chiến tranh lạnh còn mở rộng đấu tranh
giai cấp nội bộ nước mình. Chính sách chiến tranh lạnh của Mỹ thể
hiện ở sự ngăn chặn Liên Xô và cũng thể hiện ở phong trào “Tuyên
thệ trung thành” trong nước Mỹ. Ngày 21 tháng 3 năm 1947, Tổng
thống Truman ra mệnh lệnh số 9835 yêu cầu tiến hành một đợt
thẩm tra an ninh đối với 2,5 triệu viên chức nhà nước. Đợt điều tra
lòng trung thành này còn mở rộng tới 3 triệu thành viên trong lực
lượng vũ trang và 3 triệu người làm thuê cho các doanh nghiệp nhận
thầu đơn hàng ngành quốc phòng. Như vậy tại nước Mỹ ít nhất có
8 triệu người thường xuyên sống trong nỗi ám ảnh cần chứng minh
lòng trung thành của họ. Nếu cộng thêm gia đình của họ thì nước
Mỹ có 20 triệu người đứng trước mối đe dọa bị thẩm tra bất cứ lúc
nào. Cuối cùng cả đến lòng trung thành của Tổng thống Mỹ cũng
bị nghi ngờ. Ngày 6 tháng 11 năm 1953, Bộ trưởng Tư pháp Mỹ buộc
tội Truman có ý định bao che cho một gián điệp Liên Xô. Các đảng
viên Cộng sản Mỹ phải đăng ký với toà án, nếu không sẽ bị án tù hai
năm.
Cái giá phải trả về mặt kinh tế của chiến tranh lạnh cũng rất
lớn. Hồi giữa thập niên 20 thế kỷ XX, mối quan hệ buôn bán giữa
Mỹ với Liên Xô được phát triển nhất định, lần lượt xuất hiện các
tổ chức thương mại dân doanh. Mỹ trở thành một trong các nhà cung
cấp lớn nhất cho Liên Xô các thiết bị cần cho công cuộc xây dựng
Liên Xô, cũng như đã bắt đầu tiến hành đầu tư và hợp tác kỹ
thuật tại Liên Xô. Đến năm 1931 có khoảng 40 công ty lớn của Mỹ