thì cũng là kẻ khốn kiếp. Ta viết bài “Địch giới” này, ai có thể
suy nghĩ đạo lý của nó thì có thể tránh được sai lầm và tai ương.
Bài đoản văn “Địch giới” gồm 144 chữ, trình bày sâu sắc mối
quan hệ giữa các sự vật đối lập. Bài viết chỉ rõ: tuy rằng sự tồn tại
của kẻ địch là có hại, nhưng nếu có quan niệm địch tình rất mạnh,
có thể dùng kẻ địch để răn mình, luôn luôn cảnh giác đề phòng,
quyết tâm vươn tới hùng cường, thì có thể chuyển hại thành lợi.
Nếu sau khi mất mặt đối lập mà lại quên đi tất cả thì tất sẽ
chuốc lấy tai họa vô cùng. Ở đây tác giả nhấn mạnh tính chất
quan trọng của ý thức lo xa tai họa.
“Địch giới” của Liễu Tông Nguyên vạch ra phép biện chứng chính
trị, tức là nói khi có quốc gia thù địch thì phải dùng kẻ địch để răn
mình luôn luôn sẵn sàng, nhưng khi địch quốc không còn nữa thì
cũng không được quên tất cả, không được rệu rã tư tưởng; như vậy
thì khi có địch hoặc không có địch đều có thể ở vào thế bất bại.
“Địch giới” của Liễu Tông Nguyên hoàn toàn khác với thói “Nghiện
địch” của người Mỹ. Tư tưởng “Nghiện địch” của họ là thứ chủ nghĩa
thực dụng vì mục đích bảo lưu mặt đối lập nhằm khích lệ bản thân
mà cố ý dựng nên kẻ địch, là thứ thích ứng với nhu cầu chính trị
của Mỹ, khẳng định quốc gia vốn không đối địch với mình là nước
thù địch, đối xử với họ như kẻ địch và sử dụng họ.
Đi con đường mới “Không có kẻ địch vĩ đại thì cũng có nước Mỹ vĩ
đại”
Mỹ là quốc gia không có kẻ địch thì không phát triển được,
không có kẻ địch vĩ đại thì không thể trở thành vĩ đại. Cho nên tìm
kiếm kẻ địch vĩ đại, tạo dựng kẻ địch vĩ đại đã trở thành nhiệm vụ
chiến lược quan trọng hàng đầu để nước Mỹ giữ được sự vĩ đại. Một
khi tìm không ra kẻ địch vĩ đại thì nước Mỹ sẽ xuất hiện sự “khủng
hoảng chiến lược”, “hội chứng thiếu kẻ địch” của Mỹ sẽ nặng thêm.