Chiến tranh Việt Nam bắt đầu năm 1961, là bước quan trọng
của Mỹ thực thi chiến lược toàn cầu, ngăn chặn Trung Quốc.
Trong bài phát biểu hồi tháng 1 năm 1965, Bộ trưởng Quốc phòng
Mỹ Roberts MacNamara nói thẳng thừng: mục tiêu chính của Mỹ
“không phải là giúp bạn bè mà là ngăn chặn Trung Quốc”. Trong
cuộc chiến tranh kéo dài tới năm 1975, thập niên 60 thế kỷ XX là
10 năm chiến tranh ác liệt nhất. Binh lực Mỹ xâm lược Việt Nam
từng đạt tới đỉnh điểm 543 nghìn người. Trong một lần nói chuyện
năm 1965, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ đề xuất rõ ràng: “Trung
Quốc là kẻ địch chủ yếu của Mỹ hiện nay”.
Chiến tranh Việt Nam là một cuộc chiến đau lòng cho nước Mỹ.
Khi nhớ lại cuộc chiến này, Maxwell D. Taylor từng là tư lệnh quân
đội Mỹ xâm lược Việt Nam nói, cái giá nước Mỹ phải trả cho cuộc
chiến tranh Việt Nam thật là bất ngờ, hầu như khó có thể đem ra
để công khai biện luận. Ông cho rằng, ngoài thương vong nặng về
người, chi phí quân sự lớn kinh khủng ra, nước Mỹ “còn vì cuộc
chiến tranh này trả giá là chia rẽ trong nước, mất tự do hành động
khi giải quyết các vấn đề cấp thiết trong ngoài nước, để lộ ra
trong đại gia đình thế giới sự mềm yếu nội bộ nước Mỹ”. Đối với
người Mỹ, chiến tranh Việt Nam “là một cơn ác mộng lên cơn đau,
niềm hy vọng bị suy giảm, ảo tưởng tan vỡ”. Sách “Lịch sử nước Mỹ
từ năm 1900” viết: Cuộc chiến tranh này đã trở thành cuộc chiến
dài nhất, cũng đổ máu nhiều nhất trong lịch sử nước Mỹ: hơn
35.000 người Mỹ chết trong chiến đấu, ngoài ra còn 75.000 người
bị thương và mấy trăm người bị giam trong các trại tù binh ở Bắc
Việt Nam, chi phí tài chính lên tới mấy trăm tỷ USD. Gần 5.000
máy bay và máy bay lên thẳng trị giá trên 5 tỷ USD bị kẻ địch phá
hủy”.
Chiến tranh Việt Nam hầu như đem lại vết thương tâm hồn
cho mỗi một người Mỹ. Trong số hàng nghìn hàng vạn quân nhân