nương tựa nhau)” – một thành ngữ từng được Mao Chủ tịch dùng đến để
miêu tả mối quan hệ với Bắc Triều Tiên.
Có một cảnh báo cho kết luận này. Bắc Kinh đang có vị thế vững chắc
trong số các tầng lớp lãnh đạo ở Trung Á, nhưng các công ty Trung Quốc
và dân nhập cư mà những công ty đó đưa theo cùng lại cực kì mất lòng
người dân sở tại – một tình thế nhắc đến vị thế của Trung Quốc ở Myanmar
vài năm trước. Cho đến năm 2011, Bắc Kinh và các doanh nghiệp quốc
doanh đều vui vẻ cộng tác khắng khít với các tướng lĩnh Myanmar, và các
công ty Trung Quốc còn chuẩn bị xây nhiều đường bộ, đường sắt và các
đường dây điện mới. Nhưng khi chính phủ quân phiệt bị giải tán, cuộc phản
kháng toàn dân nhanh chóng chuyển hướng nhắm đến các công ty Trung
Quốc. Với một số dự án cơ sở hạ tầng trọng yếu bị bãi bỏ hoặc bị đình lại,
Bắc Kinh chưa lấy lại được chỗ đứng của họ ở quốc gia phụ thuộc cũ của
mình. Nếu những nước độc tài bạn của Trung Quốc bị thay thế bằng các
chế độ dân túy, cuộc Tây tiến không ngừng của Trung Quốc có thể bị hãm
lại.
Muslim là tên gọi người theo đạo Islam – ND.
Hãn quốc (Khanate) là tên gọi dành cho những chính thể nằm ở
vùng Trung Á, dưới quyền cai trị của Khan (Hãn), một tước hiệu chỉ người
đứng đầu chính thể này – ND.
上海五国论坛 (Thượng Hải Ngũ quốc luận đàn) –
ND.
Jihad là chữ phiên âm từ chữ Ả Rập, nghĩa là nỗ lực hoặc phấn
đấu. Khái niệm này thường được hiểu theo nghĩa: chỉ đến phát khởi chiến
tranh (bằng ngôn từ hoặc bằng vũ lực) để bảo vệ hoặc truyền bá đạo Islam.
Thường thì khi lối tiếp cận bằng ngôn từ không thành, giới Muslim sẽ dùng
đến lối jihad bằng vũ lực.
Nhưng jihad không hẳn là chiến tranh thực sự bằng vũ lực. Kể từ thế
kỉ 12, jihad còn được hiểu theo nghĩa: chỉ đến nỗ lực bên trong bản thân để