vẫn không chắc là cô có thể.
Làm sao cô có thể nói các bác sĩ đừng làm gì hết? Làm sao cô có thể để
mặc ông chết?
Vào ngày thứ Hai, mục sư Harris đón và chở họ đến nhà nguyện để quan
sát chiếc cửa sổ được lắp dựng. Vì ông đã quá yếu để đứng, nên họ mang
theo một chiếc ghế vải. Mục sư Harris giúp cô đỡ ông khi họ chầm chậm
tiến về bãi biển. Một đám đông đã tụ tập trước hoạt động của sự kiện, và
trong vài giờ sau đó, họ quan sát những nhân công cẩn thận đặt ô cửa sổ
vào đúng vị trí. Thật là cảnh ngoạn mục như cô đã hình dung, và khi thanh
giằng cuối cùng đã được bắt vít, tiếng hoan hô nổ tung. Cô quay người để
nhìn phản ứng của cha cô và nhận ra ông đã rơi vào giấc ngủ, thoát ra khỏi
tình trạng căng thẳng, trong tấm mền dày mà cô đã đắp cho ông.
Với sự giúp đỡ của mục sư Harris cô đưa ông về nhà và đặt ông lên
giường. Trên đường ra cửa, vị mục sư quay nhìn cô.
“Cậu ấy đã hạnh phúc.” Ông nói, để thuyết phục bản thân ông nhiều hơn
là cô.
“Con biết ông ấy đã.” Cô cam đoan với ông, vươn tay siết chặt cánh tay
ông. “Đó chính xác là những gì cha con đã muốn.”
Cha cô ngủ suốt phần còn lại của ngày, và khi thế giới tối sẫm bên ngoài
cửa sổ, cô biết đã đến lúc đọc bức thư. Nếu cô không làm bây giờ, có thể cô
sẽ không bao giờ tìm được can đảm để làm.
Ánh sáng trong gian bếp tối lờ mờ. Sau khi xé bì thư, cô chầm chậm mở
trang giấy. Giòng chữ viết tay rất khác so với những bức thư trước; mất đi