sánh gồm 583 TNCT chia sẻ bằng tiếng Anh từ các quốc gia mà tiếng Anh
chiếm ưu thế.
Để so sánh 2 nhóm cận tử nhân này, tôi sử dụng phương pháp đã
được vận dụng ở Chương 6 và Chương 9, phần thảo luận về TNCT trong
khi gây mê và TNCT ở trẻ em. Trong phần nghiên cứu xuyên văn hóa, tôi
xét đến mọi TNCT bất kể điểm số của họ.
Kết quả: Khi so sánh nhóm đầu tiên TNCT là nhóm không sử dụng
tiếng Anh với nhóm so sánh, tất cả 33 yếu tố TNCT đều xuất hiện ở cả hai
nhóm. Trong 33 yếu tố TNCT được so sánh này, 11 yếu tố xuất hiện với tần
suất khác nhau ở 2 nhóm, và có 2 yếu tố khác có sự khác biệt về mặt thống
kê. Kết quả này cho thấy có sự khác biệt lớn giữa các câu trả lời của hai
nhóm các cận tử nhân trước 33 câu hỏi về nội dung TNCT.
Kết quả này khiến chúng ta phải bối rối. Phải chăng nội dung TNCT
có thay đổi do vị trí địa lý? Hay việc chuyển ngữ khiến nội dung TNCT bị
sai lạc? Trong nghiên cứu khoa học, khi xuất hiện kết quả khó hiểu, chúng
ta phải tìm hiểu sâu sắc hơn để có được lời giải thích thuyết phục. Do là
chính xác những gì chúng tôi đã thực hiện khi nghiên cứu về TNCT. Lynn,
một chuyên gia nghiên cứu TNCT giàu kinh nghiệm, đã giúp chúng tôi làm
việc này. Chúng tôi thảo ra một bảng câu hỏi nhằm khảo sát nội dung
TNCT và đăng trên trang web NDERF. Bảng câu hỏi này gồm 15 câu hỏi
về nội dung TNCT. Tất cả 79 TNCT không sử dụng tiếng Anh trong nhóm
nghiên cứu đầu tiên được dịch sang tiếng Anh và đăng trên trang web
NDERF. Lynn hoàn tất bảng câu hỏi này cho tất cả 79 TNCT không dùng
tiếng Anh và 583 TNCT dùng tiếng Anh thuộc nhóm so sánh. Nỗ lực của
Lynn giúp chúng tôi có thể so sánh nội dung trực tiếp nội dung của các
TNCT không dùng tiếng Anh với nhóm so sánh vốn là nhóm sứ dụng tiếng
Anh.
Sau khi so sánh 15 yếu tố TNCT giữa 2 nhóm, chỉ có 2 câu hỏi có
sự khác biệt về mặt thống kê. Điều này cho thấy rằng các cận tử nhân
không nói tiếng Anh đã hiểu nhầm nội dung những câu hỏi điều tra trên