Các kiến thức cơ sở của bất kỳ môn học nào còn được ví như móng của
ngôi nhà. Móng có vững, ngôi nhà mới có thể xây cao được. Tuy vậy, các
khoa học cơ sở liệt kê trên Hình 31 là những khoa học lớn nên chương trình
PPLSTVĐM chỉ có thể lấy những ý nào thiết thực nhất, phục vụ môn học
tốt nhất từ các khoa học nói trên, chứ không phải trình bày chúng đầy đủ
như trong các sách giáo khoa. Với ý nghĩa như vậy, các kiến thức cơ sở về
tâm lý học sáng tạo sẽ trình bày trong quyển hai, về phép biện chứng duy
vật, lý thuyết hệ thống, thông tin, điều khiển học – trong quyển ba của bộ
sách "Sáng tạo và đổi mới".
3) Thay đổi nhận thức, quan niệm, thái độ, xúc cảm thúc đẩy hành
động của người học
PPLSTVĐM chưa từng được dạy và học chính khóa hoặc ngoại khóa
trong các trường học, cũng như trong các lớp bồi dưỡng, tập huấn chuyên
môn, nghiệp vụ ở nước ta. Tuy vậy, điều này không có nghĩa: những người
học còn đang như tờ giấy trắng trong lĩnh vực này, giúp việc dạy và học
PPLSTVĐM tiến hành một cách thuận lợi. Ngược lại, do nhiều nguyên
nhân, trên thực tế, các học viên đến lớp PPLSTVĐM đã có rất nhiều "hiểu
biết", thể hiện dưới dạng nhận thức, quan niệm, thái độ, xúc cảm của người
học về sáng tạo và những vấn đề liên quan. Những "hiểu biết" này thường
cảm tính, chủ quan, phiến diện, lạc hậu, cầu toàn…, thậm chí, sai lầm và có
phổ rất rộng: Từ không tin rằng sáng tạo có thể khoa học hóa, có thể dạy và
học được, đến cho rằng quá trình sáng tạo không thể nhận thức được. Từ
quan niệm cho rằng những sáng tạo mức cao có được là do nằm mơ (thần
thánh mách bảo) hoặc do linh tính, trực giác, đến quan niệm sáng tạo mức
thấp không phải là sáng tạo và tỏ ý coi thường. Từ thái độ thấy sáng tạo là
cần thiết, cần khuyến khích, ủng hộ vô điều kiện, đến thái độ cho rằng sáng
tạo chỉ tạo thêm rắc rối, khó quản lý. Từ sự rụt rè đến mức nghĩ mình suốt
đời sẽ không bao giờ sáng tạo cả, đến rất tự tin cho là mình đã sáng tạo đủ
tốt vì mình luôn là người đứng đầu trong các tập thể, các môi trường nơi
mình trải qua.