Trong bài "Việt Nam công bố bao nhiêu công trình khoa học trên các tạp
chí quốc tế", Tạp chí Tia Sáng, số 16 tháng 9/2003, Phạm Duy Hiển dẫn các
số liệu sau: "Thái Lan có 6.400 người làm việc trong lĩnh vực nghiên cứu và
phát triển (Research and Development – R&D) so với 21.000 ở nước ta.
Như vậy ở nước ta một người làm R&D hàng năm công bố được 0,065 công
trình, trong khi đó ở Thái Lan là 0,20, còn các nước khác là: Hà Lan – 1,29;
Mỹ – 0,75; Malaysia – 0,37; Nhật – 0,32; Nga – 0,31; Ấn Độ – 0,31;
Pakistan – 0,13; Trung Quốc – 0,046".
Theo nghĩa rộng nhất, sáng chế là hoạt động của con người tạo ra đối
tượng không tồn tại sẵn có trong hiện thực khách quan. Thường
thường, người ta gọi chính đối tượng đó là sáng chế. Các sáng chế có ở
trong các lĩnh vực kỹ thuật, văn học, nghệ thuật, hội họa, âm nhạc… là
những đối tượng được những con người cụ thể tạo ra, chúng chưa có
trước khi có con người.
Khác với các phát minh, các sáng chế có thể đem lại nhiều lợi nhuận
ngay. Chúng có thể trở thành hàng hóa, trao đổi, mua bán vì nhiều người cần
những ích lợi do các sáng chế đó mang lại. Điều này có thể hiểu được do các
sáng chế của con người có nguồn gốc sâu xa từ nhu cầu biến đổi thế giới
xung quanh để mình ít tốn sức lực nhất mà kết quả thu được đạt nhiều nhất:
Con người chủ động tạo ra những cái làm cuộc sống, công việc trở nên tốt
đẹp và nhẹ nhàng hơn. Tuy loại nhu cầu này ai cũng có nhưng không phải ai
cũng sáng chế ra được cái cần sáng chế. Khi có người sáng chế ra đối tượng
mong đợi, những người khác cũng muốn có, họ phải mua của nhà sáng chế.
Cùng với việc xuất hiện các sáng chế cũng xuất hiện mong muốn mãnh liệt
của các tác giả sáng chế bảo vệ và củng cố “lợi nhuận” do các sáng chế của
mình đem lại: họ muốn giữ độc quyền khai thác các sáng chế ấy. Điều này
đã được thực hiện từ thời kỳ xa xưa bằng cách cha truyền các bí quyết cho
con, thầy truyền cho trò ruột. Trong xã hội phong kiến, các bí mật của các
sáng chế cũng còn được các tác giả tự bảo vệ tương đối dễ dàng nhờ phạm