“Trong suốt 200 năm, cho đến giữa thế kỷ 19, sốt hậu sản xảy ra phổ biến trong các nhà hộ sinh
Châu Âu. Có những năm, trên dưới 30% sản phụ bị chết. Một số con số thống kê cho thấy, riêng tại
nước Phổ, trong 60 năm có 363.624 sản phụ chết, tức là lớn hơn số người chết vì đậu mùa và bệnh tả
gộp lại. Tháng 12 năm 1842, số sản phụ chết là 31,3%. Ở thành phố Praha, năm 1848 có 37,36% sản
phụ chết; 1849 – 45,54%; 1850 – 52.65%. Tỷ lệ tử vong 10% được coi là bình thường. Trong tất cả
các loại bệnh được phân tích thống kê, sốt hậu sản có tỷ lệ tử vong cao nhất. Các sản phụ sợ đến các
nhà hộ sinh, nhiều người trong số họ thích sinh con trên xe lửa và ngoài đường hơn. Ai phải vào nhà
hộ sinh, trước đó đã phải nói lời vĩnh biệt những người thân, giống như trước khi lên đoạn đầu đài.
Các nhà chuyên môn thời đó coi sốt hậu sản là dịch và đưa ra tới 30 giả thuyết về nguyên nhân, ví
dụ, do thay đổi trạng thái không khí, đất, do vị trí của nhà hộ sinh... Người ta đã thử điều trị bằng mọi
cách, kể cả sử dụng thuốc tẩy. Mổ xác các nạn nhân cho thấy cùng một kết quả: Các sản phụ chết vì bị
nhiễm trùng máu.
Năm 1847, bác sỹ của thành phố Viên (Áo) I.P. Semmelweis (1818 – 1865), khi đó mới 29 tuổi, đã
tìm ra nguyên nhân gây nên biết bao cái chết thương tâm của các bà mẹ. Bằng các thông tin, dữ liệu
thu thập được và xử lý chúng, ông đi đến kết luận, chính sự cẩu thả của các bác sỹ khi thăm khám, đỡ
đẻ, thực hiện các ca mổ bằng những bàn tay thiếu vệ sinh, trong các điều kiện thiếu vệ sinh đã dẫn đến
sự nhiễm trùng máu. Ông đề nghị, không chỉ rửa tay bằng nước sạch và xà phòng, mà còn phải sát
trùng bằng nước clo. Đấy chính là nội dung của phương pháp phòng ngừa căn bệnh nói trên.
Tất cả các danh y của Châu Âu lúc đó đều chống lại phương pháp của Semmelweis và chính bản
thân Semmelweis. Phương pháp của ông đã không được tiếp nhận một cách rộng rãi và triệt để khi
ông còn sống. Ông mất năm 1865, tức 18 năm sau khi đưa ra phương pháp của mình, một phương
pháp mà tính đúng đắn của nó có thể rất dễ dàng kiểm tra trên thực tế”.
Bây giờ, chúng ta đi vào các chi tiết cuộc đời của Semmelweis, nhìn theo sáu phẩm chất của nhân
cách sáng tạo:
“1) Xác định mục đích xứng đáng.
Semmelweis chọn mục đích của mình không phải ngẫu nhiên. Năm 1844, sau khi tốt nghiệp khoa
y, Đại học tổng hợp Viên, Semmelweis nhận bằng bác sỹ về sản và phụ khoa. Cũng trong năm đó, ông
trở thành nghiên cứu sinh bệnh viện Klein ở Viên. Bệnh viện Klein là bệnh viện có số sản phụ chết do
sốt hậu sản thuộc loại cao nhất, trong số các bệnh viện ở Châu Âu.