trở thành “cô độc”, như V.Y. Vernađsky mô tả ở trên. Trong ý nghĩa này,
Nguyễn Du trong “Truyện Kiều” đã đúng khi viết:
“Đã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa
Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”
Ngoài tài năng sáng tạo, bạn phải chuẩn bị đủ tâm (các xúc cảm, ý chí cần
thiết) để thực hiện nghiệp thiện, chứ đừng trách hoàn cảnh này, khác.
Khi nói cá nhân biết cách tự điều khiển thế giới bên trong, do vậy, điều
khiển được các hành động thể hiện ra bên ngoài phù hợp với các quy
luật phát triển. Điều này có nghĩa, cá nhân phải tự điều khiển được
động cơ – năng lực – mục đích của mình, là cơ chế điều chỉnh cao nhất
các hành động. Cơ chế này định hướng và tổ chức các quá trình tâm lý,
kể cả quyết định tính chọn lọc của tri giác, chú ý, trí nhớ...
PPLSTVĐM chỉ ra rằng, để biến điều khiển thành tự điều khiển, người
giải bài toán đó phải sử dụng và khai thác tối đa các nguồn dự trữ có
sẵn trong hệ thống bị điều khiển. Các nguồn dự trữ này có thể là các
quan hệ phản hồi có sẵn nhưng chưa được phát huy, hoặc/và tạo ra các
quan hệ phản hồi phù hợp nhờ các nguồn dự trữ có sẵn dưới dạng vật
chất, năng lượng, thông tin và các tổ hợp của chúng, bằng cách thiết lập
thích hợp các mối liên kết tương tác giữa chúng.
Đi vào cụ thể, thế giới bên trong con người sáng tạo được mô tả tổng quát
trong các Hình 39: Mô hình nhu cầu – hành động của cá nhân ở tuổi trưởng
thành nhất định và Hình 43: Mô hình tư duy trong ngữ cảnh của mô hình
nhu cầu–hành động. P. Anôkhin cho rằng: “Để không làm nảy sinh các xúc
cảm có hại, phải đặt trí tuệ và lôgích vào giữa kích thích (nguồn tạo ra các
xúc cảm có hại – người viết giải thích) và xúc cảm”. D. Goleman và những
nhà nghiên cứu khác đưa ra khái niệm trí tuệ xúc cảm (Emotional
Intelligence), nói về năng lực trí tuệ làm chủ các xúc cảm thúc đẩy hành