cơ bản, mà còn đối lập hẳn với phương pháp ấy nữa"
1
. Giải thoát chủ nghĩa duy vật khỏi
tính hạn chế siêu hình, Mác đã làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên hoàn bị và mở rộng
học thuyết ấy từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội loài người: "Chủ
nghĩa duy vật lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học"
2
. Đó là một
cuộc cách mạng thật sự trong học thuyết về xã hội, một trong những yếu tố chủ yếu của
bước ngoặt cách mạng mà Mác và Ăngghen đã thực hiện trong triết học.
Với sự ra đời của triết học Mác, vai trò xã hội của triết học cũng như vị trí của triết
học trong hệ thống tri thức khoa học cũng biến đổi.
"Các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề
là cải tạo thế giới"
1
. Luận điểm đó của Mác nói lên sự khác nhau về chất giữa triết học
của ông với các học thuyết triết học trước kia, kể cả những học thuyết triết học tiến bộ.
Tuy vậy, Mác không hề phủ nhận, trái lại Mác đã đánh giá cao vai trò to lớn của các nhà
triết học và các học thuyết triết học tiến bộ trong sự phát triển xã hội. Chẳng hạn, Mác
khâm phục và đánh giá rất cao chủ nghĩa vô thần triết học của các nhà duy vật Pháp
thế kỷ XVII. Song, mặt hạn chế về tính thực tiễn là "khuyết điểm chủ yếu" của mọi học
thuyết duy vật trước Mác nên nó chưa trở thành công cụ nhận thức khoa học để cải tạo
thế giới bằng cách mạng. Nay nó đã được Mác khắc phục, vượt qua và đi tới chủ nghĩa
duy vật lịch sử làm cho chủ nghĩa duy vật trở thành triệt để.
Triết học Mác là thế giới quan khoa học của giai cấp công nhân, một giai cấp tiến
bộ và cách mạng nhất, một giai cấp có lợi ích phù hợp với lợi ích cơ bản của nhân dân
lao động và với sự phát triển xã hội. Sự kết hợp lý luận của chủ nghĩa Mác với phong
trào công nhân đã tạo nên bước chuyển biến về chất của phong trào, từ trình độ tự phát
lên tự giác. Phép biện chứng mácxít mang tính cách mạng sâu sắc nhất "vì trong quan
niệm tích cực về cái hiện đang tồn tại, phép biện chứng đồng thời cũng bao hàm cả quan
niệm về sự phủ định cái hiện đang tồn tại đó, về sự diệt vong tất yếu của nó; vì mỗi
hình thái đã hình thành đều được phép biện chứng xét ở trong sự vận động, tức là xét
cả mặt nhất thời của hình thái đó; vì phép biện chứng không khuất phục trước một cái gì
cả, và về thực chất thì nó có tính chất phê phán và cách mạng"
2
. Sức mạnh "cải tạo thế
giới" của triết học mácxít chính là sự gắn bó mật thiết cuộc đấu tranh cách mạng của
quần chúng nhân dân đông đảo, nhờ đó lý luận "sẽ trở thành lực lượng vật chất".
Triết học Mác cũng đã chấm dứt tham vọng ở nhiều nhà triết học duy tâm coi triết
học là "khoa học của các khoa học" đứng trên mọi khoa học. Mác và Ăngghen đã xây
dựng lý luận triết học của mình trên cơ sở khái quát các thành tựu của khoa học tự nhiên
và khoa học xã hội. Theo Ăngghen, mỗi lần có một phát minh vạch thời đại, ngay cả
trong lĩnh vực khoa học tự nhiên, thì chủ nghĩa duy vật không tránh khỏi phải thay đổi
1. C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, t. 23, tr. 35.
2. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, t.23, tr. 53.
1
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.3, tr. 12.
2
C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, t. 23, tr. 35-36.
61