Sau khi C.Mác mất (1883), Ph.Ăngghen, một mặt, tập trung sức lực và trí tuệ để
chuẩn bị cho việc xuất bản tập hai và tập ba bộ Tư bản - một việc làm mà sau này được
V.I.Lênin đánh giá như là việc Ph.Ăngghen đã xây dựng cho người bạn của mình một
đài kỷ niệm vĩ đại và trên đó Ph.Ăngghen không ngờ đã khắc luôn tên tuổi của mình, -
mặt khác, tiếp tục lãnh đạo phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và hoàn thành
các tác phẩm triết học quan trọng của mình, trong đó đặc biệt có các tác phẩm Nguồn
gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước (1884), Lútvích Phoiơbắc và sự cáo
chung của triết học cổ điển Đức (1886).
Tác phẩm Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước được
Ph.Ăngghen viết từ tháng ba đến tháng năm và xuất bản vào tháng mười năm 1884. Trong
tác phẩm đó, Ph.Ăngghen dựa vào những phát hiện khoa học mới nhất của Moócgăng để
phát triển quan điểm duy vật biện chứng về lịch sử xã hội có giai cấp. Ph.Ăngghen chứng
minh rằng, sự phát triển của sản xuất vật chất đã làm cho chế độ công xã nguyên thuỷ tan
rã và hình thành xã hội có giai cấp dựa trên sự sở hữu tư nhân.
Sự nghiên cứu lịch sử xã hội nguyên thuỷ đã giúp Ph.Ăngghen khẳng định thêm
luận điểm về đấu tranh giai cấp như là nội dung của lịch sử xã hội có giai cấp.
Tác phẩm cũng chỉ ra quá trình tiến hóa của các hình thức gia đình, sự hình thành
giai cấp và nhà nước. Đặc biệt, Ph.Ăngghen đã khẳng định quan điểm duy vật lịch sử về
nhà nước như là sản phẩm của sự phân chia xã hội thành giai cấp.
4. Thực chất và ý nghĩa cuộc cách mạng trong triết học do Mác và
Ăngghen thực hiện
Sự ra đời triết học Mác tạo nên sự biến đổi có ý nghĩa cách mạng trong lịch sử phát
triển triết học của nhân loại.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa một cách có phê phán những thành tựu tư duy
nhân loại, sáng tạo nên chủ nghĩa duy vật triết học triệt để, không điều hòa với chủ
nghĩa duy tâm và phép siêu hình.
Triết học Mác đã khắc phục sự tách rời thế giới quan duy vật và phép biện chứng
trong lịch sử phát triển của triết học. Cố nhiên, trong các học thuyết triết học duy vật
trước Mác đã chứa đựng không ít những luận điểm riêng biệt thể hiện tinh thần biện
chứng; song do sự hạn chế của điều kiện xã hội và của trình độ phát triển khoa học nên
tính siêu hình vẫn là một nhược điểm chung của chủ nghĩa duy vật triết học trước
Mác. Trong khi đó, phép biện chứng lại được phát triển trong cái vỏ duy tâm thần bí của
một số đại biểu triết học cổ điển Đức, đặc biệt là trong triết học Hêghen. Nhưng chủ
nghĩa duy vật biện chứng không phải là sự "lắp ghép" phép biện chứng của Hêghen với
chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc. Để xây dựng triết học duy vật biện chứng, Mác đã phải
cải tạo cả chủ nghĩa duy vật cũ và cả phép biện chứng duy tâm của Hêghen, Mác
viết: "Phương pháp biện chứng của tôi không những khác phương pháp của Hêghen về
60