phạm trù không thể phản ánh đúng đắn và đầy đủ hiện thực khách quan được. Vì vậy, hệ
thống phạm trù của phép biện chứng duy vật không phải là một hệ thống đóng kín, bất
biến, mà nó thường xuyên được bổ sung bằng những phạm trù mới cùng với sự phát
triển của thực tiễn và của nhận thức khoa học.
Trong các chương trước, chúng ta đã nghiên cứu một số phạm trù của triết học như
phạm trù “vật chất”, “ý thức”, “phản ánh”, v.v.; chương này chúng ta nghiên cứu một số
cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật.
II- Cái riêng và cái chung
1. Khái niệm cái riêng và cái chung
Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta thường tiếp xúc với những sự vật, hiện
tượng, quá trình khác nhau như: Cái bàn, cái nhà, cái cây cụ thể, v.v.. Mỗi sự vật đó
được gọi là một cái riêng, đồng thời, chúng ta cũng thấy giữa chúng lại có những mặt
giống nhau như những cái bàn đều được làm từ gỗ, đều có màu sắc, hình dạng. Mặt
giống nhau đó người ta gọi là cái chung của những cái bàn.
Vậy cái riêng là phạm trù chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình nhất định.
Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính không những có ở
một kết cấu vật chất nhất định, mà còn được lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng hay
quá trình riêng lẻ khác.
Cần phân biệt “cái riêng” với “cái đơn nhất”. “Cái đơn nhất” là phạm trù để chỉ
những nét, những mặt, những thuộc tính... chỉ có ở một sự vật, một kết cấu vật chất, mà
không lặp lại ở sự vật, hiện tượng, kết cấu vật chất khác. Thí dụ, thủ đô Hà Nội là một
“cái riêng”, ngoài các đặc điểm chung giống các thành phố khác của Việt Nam, còn có
những nét riêng như có phố cổ, có Hồ Gươm, có những nét văn hóa truyền thống mà chỉ
ở Hà Nội mới có, đó là cái đơn nhất.
2. Quan hệ biện chứng giữa "cái riêng" và "cái chung"
Trong lịch sử triết học đã có hai quan điểm trái ngược nhau về mối quan hệ giữa
“cái riêng” và “cái chung”:
Phái duy thực cho rằng, “cái riêng” chỉ tồn tại tạm thời, thoáng qua, không phải là
cái tồn tại vĩnh viễn, chỉ có “cái chung” mới tồn tại vĩnh viễn, thật sự độc lập với ý thức
của con người. “Cái chung” không phụ thuộc vào “cái riêng”, mà còn sinh ra “cái
riêng”. Theo Platôn, cái chung là những ý niệm tồn tại vĩnh viễn bên cạnh những cái
riêng chỉ có tính chất tạm thời. Thí dụ, bên cạnh cái cây riêng lẻ, có ý niệm cái cây nói
chung; bên cạnh cái nhà riêng lẻ, có ý niệm cái nhà nói chung, v.v.. Cái cây, cái nhà
riêng lẻ có ra đời, tồn tại tạm thời và mất đi, nhưng ý niệm cái cây, cái nhà nói chung thì
tồn tại mãi mãi. Từ đó Platôn cho rằng cái cây, cái nhà riêng lẻ là do ý niệm cái cây, cái
nhà nói chung sinh ra. Như vậy theo Platôn cái riêng do cái chung sinh ra.
Phái duy danh cho rằng, chỉ có cái riêng tồn tại thực sự, còn cái chung là những
102