Cũng đều là lựa chọn đạo Nho nhưng ở mỗi người một khác. Các nguyên lý thì có
sẵn trong các tác phẩm kinh điển nhưng họ có sự lựa chọn khác nhau và giải thích
khác nhau. Các nhà yêu nước và nhân đạo chủ nghĩa như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh
Khiêm, Ngô Thì Nhậm... thì thường phát huy những khái niệm nào đó của nhà Nho có
sức diễn đạt được nội dung yêu nước, yêu dân, yêu con người và tin ở năng lực con người.
Các nhà Nho khác thì chỉ chú trọng các khái niệm, các nguyên lý nói lên tính chất tôn ti
trật tự và đẳng cấp khắc nghiệt trong Nho giáo. Do vậy, cũng đều là nhà Nho nhưng
giữa họ có những lập trường triết học và chính trị khác nhau, thậm chí đối lập nhau.
Khi vào đời, các nhà tư tưởng Nho học đều khẳng định đạo Nho, đều lấy đạo Nho
làm lý tưởng sống của mình. Nhưng cuộc sống khiến họ không thể kiên trì một
mình đạo Nho. Bởi lẽ khi bước ra khỏi lĩnh vực chính trị, khi phải giải quyết các vấn đề
sống - chết, may - rủi, phúc - họa, thường - biến, những vấn đề gắn với cuộc sống đời
thường của mỗi người thì đạo Nho không đáp ứng được. ở đây Phật giáo lại có sức hấp
dẫn. Người ta tìm đến đạo Phật, lấy Phật giáo làm chỗ dựa tinh thần. Và khi thất thế trên
đường danh lợi, họ lại tìm đến đạo Lão - Trang để có niềm an ủi và để được tự do, tự tại.
Thế giới quan Nho - Phật - Lão thường là thế giới quan chung của họ. Vì vậy, trong quan
niệm về đạo, ngoài đạo Nho ra, còn bao hàm cả Phật và Lão - Trang.
Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta "Đạo" được xem như quốc hồn, quốc tuý,
được biến thành biểu tượng của truyền thống yêu nước, thương nòi. Yêu "đạo" được
xem là yêu nước, vì đạo mà chiến đấu, mà hy sinh. Đã có biết bao tấm gương tử vì đạo,
tức là hy sinh để bảo vệ độc lập cho đất nước. Nhưng vì "đạo" đó là thế giới quan cũ, không
giúp hiểu được xu thế của thời đại, không hiểu rõ được kẻ thù của dân tộc, không chỉ ra
được con đường hữu hiệu để cứu nước, vì vậy lúc bấy giờ yêu "đạo" bao nhiêu thì càng
ngậm ngùi bấy nhiêu. Vấn đề đặt ra cho thời kỳ này là phải có một "đạo" khác ngang
tầm với thời đại. Đó là một trong những điều kiện để chủ nghĩa Mác - Lênin du nhập vào
Việt Nam.
*
* *
Những thành tựu đạt được về lịch sử tư tưởng triết học của dân tộc là công lao của
các nhà lãnh đạo đất nước, của các nhà lý luận trong lịch sử. Họ đã vượt qua bao nhiêu
khó khăn và hạn chế của thời đại và của bản thân để xây dựng nên lý luận sắc bén cho
đất nước mình, nhất là trong lĩnh vực đấu tranh cho độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia.
Nhưng khách quan mà nói, lý luận đó còn có nhiều hạn chế. Nó không chú trọng vấn đề
nhận thức luận và phương pháp tư duy là những vấn đề quan trọng của triết học. Nó
không dám trái với kinh điển của thánh hiền, không biết lấy thực tiễn đất nước để
kiểm nghiệm chân lý, không biết lấy việc xây dựng lý luận cho mình làm mục tiêu phấn
đấu; vì thế, đã không tạo ra được những nhà triết học và những trường phái triết học
riêng biệt.
Ngày nay, chúng ta đã được trang bị triết học Mác -Lênin - một triết học khoa học
và cách mạng của loài người, nhờ đó nhiều vấn đề thực tiễn của đất nước đã được nhận
thức trên bình diện lý luận, và lịch sử tư tưởng triết học của dân tộc Việt Nam đã có
45