thể thức dậy sớm hay muộn, đọc sách hay không, trả lời điện thoại hay
không. Cánh cửa tủ đang mở, và dĩ nhiên lúc này nó trống rỗng.
Tôi nghĩ đến lời tuyên bố của gia đình Kramer rằng anh mặc áo khoác
với sơ-mi cổ mở và quần tây khi ra đi vào trưa hôm đó.
Thời tiết hôm đó ra sao nhỉ? Tôi tự hỏi. Có phải đó là một trong những
buổi trưa tháng năm lạnh lẽo như thứ Bảy vừa rồi? Hay nếu thời tiết rất
nóng, và Mack thực sự đã rời nhà lúc ba giờ thì việc mặc áo khoác có điều
gì đó quan trọng không? Một cuộc hẹn à? Một chuyến lái xe đến nhà người
bạn gái ở Connecticut, hay ở Long Island?
Thật khôi hài, nhưng trong căn phòng đó mười năm sau, tôi lại cảm
nhận được sự hiện diện của anh ấy. Anh ấy luôn rất thong thả. Cha rất
quyết liệt, luôn nhạy cảm, và với sự chính xác, ông đánh giá và xét đoán
tình hình nhanh như chớp. Tôi biết mình cũng giống như thế. Mack có phần
giống mẹ hơn. Anh ấy luôn cho mọi người một cơ hội. Cũng giống như bà,
nếu có bao giờ anh ấy ý thức được mình bị lợi dụng hoặc bị đối xử tồi tệ,
anh ấy sẽ chẳng bao giờ đôì đầu, anh ấy sẽ chỉ đơn giản ra sức rút lui khỏi
tình thế đó thôi. Và đó chính là điều tôi nghĩ mẹ đang làm bây giờ - bà xem
lá thư ngắn Mack bỏ trong cái rổ đựng đồ quyên góp là một cái tát vào mặt.
Tôi đi ra cửa sổ, cố nhìn những gì anh đã nhìn thấy. Biết Mack từng
yêu thích đứng tại cửa sổ của căn hộ ở Sutton Place ra sao, rồi nghiền ngẫm
quang cảnh, sông East River với tàu bè và xà lan, những ngọn dèn trên cầu,
giao thông trên không, đến và đi khỏi phi trường La Guardia, tôi chắc anh
ấy thường đứng ngây ra ngó qua những cái cửa sổ này, nhìn ra đại lộ West
End, những lối dành cho người đi bộ thường xuyên tràn ngập dòng người,
dòng xe cộ nối đuôi nhau trên đường.
Giấc mơ mà tôi có về anh sau cuộc điện thoại trước bình minh vào
Ngày của Mẹ lại tái hiện trong tâm trí tôi. Một lần nữa, tôi lại đang đi trên
con đường tối tăm, tuyệt vọng tìm cho ra Mack.