Phước-trung, quận Hòa-lạc, tỉnh Gò-công), sinh năm Quý-tỵ 1893, mất năm
1963.
Theo quyển Lê-gia thế-phổ do chính tay cụ viết, được biết dòng dõi cụ
như sau : « Ông thỉ tổ vào Nam chưa biết hồi năm nào, có lẽ từ năm 1744
đến năm 1750, lúc chúa Nguyễn chiêu mộ người vào khai-khẩn đất hoang ở
miền Nam. Gốc người ở Quảng-Nam. Thỉ tổ ông tên húy là Chánh, tự là
Thọ, vào Nam với 5 người con. Từ thỉ-tổ đến cao tổ đời thứ nhứt và thứ nhì
còn nghèo, ít học, qua đời thứ ba đã khá, có của tiền và có học, song học
chữ Nho ».
Ông nội tên là Lê-Văn-Đồng, làm chức Hương-thân, thân phụ tên Lê-
văn-Túc, tự Nghiêm-kỉnh, làm ông Bái, mẹ là bà Đặng-thị-Còn.
Năm 19 tuổi, cụ lập gia đình với bà Nguyễn-thị-Ngọ, con gái của ông
Nguyễn-văn-Khuê, làm Hương-thân ở làng Tân-phước, ấp Rạch-già, tỉnh
Gò-công. Ở được 27 năm bà này mất, sanh cả thảy 12 lần nhưng chỉ còn
được là 3 trai, 2 gái. Cụ lấy vợ kế là bà Nguyễn-thị-Sáu, ở xóm sau nhà,
chung sống với nhau được 26 năm.
Vốn là con một bậc túc nho, cụ có căn bản vững chắc về Hán-học,
nhưng chuyên sống về nghề nông vì thời thế phải ra làm thôn-trưởng mấy
năm (người trong làng thường gọi là « Ông Thôn Năng ») rồi trở về làm
ruộng và học hỏi, nghiên-cứu Đông-y trên 10 năm.
Cụ có tài làm thi thơ rất giỏi, quanh vùng đều biết tiếng nhưng có tánh
khiêm tốn, ai ai cũng đều kính mến cụ.
Vào lúc 6 giờ sáng ngày 8-4-1963 cụ nằm trên giường bịnh đọc bài thơ
« Vĩnh-biệt » cho người con trưởng nam là ông Lê-văn-Triều chép trước khi
từ giã đời. Bài thơ ấy như vầy :
« Cảm tạ ơn lòng bạn chí thân ;
Thương nhau cho chát, viếng ân-cần.
Biết nhau chẳng bởi trên lời nói,