Một bằng chứng về sự lạ âm binh hiển hiện trong vùng âm u đám-lá-
tối-trời, là chính giặc Pháp cũng phải lưu tâm. Một thời-gian khá lâu, chúng
đem đại-bác xuống bắn vào vùng, và cho lính đến thổi kèn đồng để phá bớt
cảnh âm-u tịch-mịch.
Không phải vì sợ tiếng đại-bác hay kèn đồng của quân địch – lúc sống
còn không sợ, chết rồi hồn thiêng còn sợ chi ai ? – nhưng sau một thời-gian
khí hậu không tiêu còn vương vấn cây cỏ, có lẽ anh hồn các chiến-sĩ của
Trương-Công nhờ các cuộc cầu siêu kinh kệ của người chơn đạo, đã hiểu lẽ
huyền-vi của tạo-hóa mà xa lánh cuộc đời ô-trọc không nghĩa lý gì. Mọi sự
chỉ là hư không, có ích gì mà quyến-luyến ? Sống làm tướng, chết làm thần,
dầu không có sắc phong, cũng được nhơn dân muôn đời kính bái.
Từ đó khí oán tiêu tan, ở đám-lá-tối-trời không còn nghe những chuyện
ma quái nữa. Tuy vậy, cảnh cũ vẫn còn u ám, chuyện xưa còn ghi trong tâm
tưởng nhiều người. Thường dân ít có ai dám léo hánh đến gần sau khi mặt
trời xế bóng. Những kẻ gian lợi-dụng sự kiêng sợ này. Quân trộm cướp làm
ăn được đem tài vật về giấu giếm ở vùng này. Bọn trộm trâu bò cũng dắt về
vùng này làm thịt, khỏi sợ ai dòm ngó.
Một số dân lương-thiện nhưng không tiền đóng thuế thân cho Pháp
phải trốn tránh, cũng dùng đám-lá-tối-trời làm nơi ẩn lánh thân mình.
Non một thế-kỷ trôi qua, lịch-sử lại tái diễn. Nhơn sự sụp đổ của thực-
dân trong đệ-nhị thế chiến, cuộc toàn dân kháng Pháp nổi lên ở miền Nam.
Tinh-thần bất-khuất của dân tộc còn sống mãi, thanh niên Bến-tre – Gò-
công không hổ là con cháu những anh-hùng ngày xưa đã hy-sinh trong
đám-lá-tối-trời, đã vùng lên chiến đấu hy-sinh oanh-liệt, và cũng như ngày
trước, kháng chiến quân ta đã lại dùng căn cứ cũ, làm cho Pháp quân điêu
đứng vì vùng bí hiểm đám-lá-tối-trời. Một vùng nhỏ của non sông đã ghi
những trang sử thắm.