đuối. Khi xác nổi lên, đôi trai gái hãy còn nắm tay nhau. Cha mẹ đôi bên
động lòng, cho chôn chung một chỗ. Ít lâu, đôi lứa thường hiện lên. Vì thế
đặt tên là rạch Đôi-ma hay Song-ma, có miếu thờ.
Trên đây là theo sự truyền khẩu của các vị bô lão và theo ông Thượng
Tân-Thị trong bản dịch « Nam Kỳ lục tỉnh dư địa chí » của Duy Minh-Thị.
Còn trong « Đại-Nam nhất thống chí » thì chép :
« Tương truyền xưa có người con gái nhà giàu tuổi vừa đến lứa cài
trâm, thầm yêu gã thư-sinh Nguyễn-vi-Nhân. Nhưng gã thư-sinh vì nghèo,
nên dầu biết rõ mối tình, vẫn chẳng dám mượn mai mối ngỏ việc hôn nhân.
Cô gái tương-tư uất-hận mà chết. Cha mẹ nàng ấy thương tiếc không đem
chôn ngay, cất lều ở sau vườn làm nơi quàn linh cữu. Gã thư-sinh hay tin,
bèn đến thắt cổ chết bên cạnh.
Người ta quàn cả lại một chỗ, âm khí kết tựu lần thành ma quỷ. Sau
cha mẹ cô gái đều buồn rầu mất đi. Đôi xác trẻ không ai chôn cất. Chốn
hoang vu cây cối mọc đầy thành gò rậm, quỷ khí càng thạnh hành. Dân
chúng thường khổ sở vì đó, đặt tên sông là Đôi ma. Sau, Tây-sơn đốt phá,
tai quái mới dứt ».
Khoảng năm 1906, một người Huê-kiều chủ hiệu thuốc Bắc « Nhân Ái
Đường » ở Mỹ-tho, thông hiểu Việt-văn, thường lui tới Gò-công đi ngang
qua Vịnh Đôi-ma, có bài thơ cảm xúc về chuyện rạch Đôi-ma như dưới đây
:
Vực thẳm cây cao chiếm một tòa,
Sống không lẽ cặp, chết đôi ma.
Hồn hoa đem gửi chòm cây bạc,
Phách quế nương theo bóng nguyệt tà.
Con nước chảy ròng rồi kế lớn,
Tấm lòng có bậu lại cùng qua.
Căn duyên ai khiến xui cho đấy,