1
Shinohara nhìn bàn tay mình và suy nghĩ. “Bàn tay” đương nhiên là bộ
phận nằm ở cuối chi trước của các loài động vật có xương sống. Bàn tay
của y đã tiến hóa để cầm nắm các vật dụng, thực hiện những công việc như
gõ bàn phím máy tính bằng năm ngón hay nghiêng cốc cà phê. Có thể nói
đôi bàn tay là tất cả của một con người. Vì thế nên mới sinh ra thuật xem
chỉ tay. Thuật xem chỉ tay dựa vào việc quan sát hình dạng các nếp gấp
trong lòng bàn tay để đoán biết tính cách và số phận. Nói cách khác bàn tay
chính là tấm gương phản ánh quá khứ và tương lai của một con người.
Từ khi còn nhỏ Shinohara đã thích bàn tay rồi. Y không nhịn được chú ý
đến tay người khác, mỗi khi được bố mẹ dẫn ra ngoài chơi thì thứ đọng lại
trong mắt cậu bé Shinohara không phải là dòng người đông nghịt trên phố
mà là tập hợp vô số bàn tay. Kể cả khi bắt đầu vào tiểu học, đối với y
những kẻ đang đi lại xung quanh mình không phải là bạn học mà chỉ là
những sinh vật có hai bàn tay thõng xuống thôi.
Ngoài bàn tay ra thì những bộ phận khác đều không thể hiện bản chất
của con người. Ví như vẻ mặt hay lời nói phát ra từ miệng, với Shinohara
đều không hề có vẻ chân thật. Ngược lại, đôi bàn tay có bản tính chân thật
khó mà thay đổi. Mu bàn tay nổi đầy gân. Năm ngón tay duỗi dài. Móng ở
đầu những ngón tay, và phần viền móng màu trắng hình bán nguyệt. Vân
tay là một bộ phận quan trọng đặc trưng cho từng cá nhân.
Hồi những năm đầu tiểu học Shinohara đã lén lút dùng kéo cắt cổ tay
những con búp bê đồ chơi mà chị gái vứt đi. Đống bàn tay búp bê nhỏ xíu
nằm lăn lóc trên lòng bàn tay Shinohara. Y nhét vào túi rồi vứt những con
búp bê cụt bàn tay đi. Sau đó mỗi khi có thời gian rảnh, Shinohara lại dùng