hoạt động được nữa, bèn ra mặt để cho Pháp bắt vào khám đường cùng anh
em trọn hai chữ thủy chung, sống chết có nhau.
Ông Năm Hi được coi như Khổng Minh của đảng hay vị tham mưu
trưởng, theo danh từ ngày nay.
Việc điều khiển binh sĩ thì có ông Ba-Hầu hồi ấy làm hương hào nên
có người gọi là Hương-Hầu. Võ nghệ cao cường ông được anh em thán
phục, tuân theo mệnh lệnh răm rắp.
Hồi ấy là năm 1916, nước Pháp đang nguy khổn với Đức trong cuộc
đại chiến 1914-1918 sự bại trận của Pháp có thể xảy ra bất thần. Các nhà ái
quốc V.N. bôn ba hải ngoại cho rằng giờ giải phóng đất nước đã đến.
Mặc dầu thực dân Pháp với chánh sách nịnh dân của Toàn quyền Xa
Lộ (Sarraut) song một số người Việt Nam thức thời ở trong nước cũng
không để cho bị đầu độc, ru ngủ…
Trong các làng khắp Trung Nam Bắc có những người giác ngộ, chỉ chờ
cơ hội tốt là nổi lên phất cờ khởi nghĩa.
Vùng Tân Uyên có nhiều tay võ giỏi, môn sinh của phái Tân Khánh
nổi tiếng thời bấy giờ. Họ đưa các bậc đàn anh lên để mưu toan việc giành
độc lập. Họ là 9 nhà ái quốc nói trên mà hai người cầm đầu cùng trong số
này là ông Năm Hi và ông Hương Hầu.
Họ lấy trại Lâm Trung làm căn điểm tụ tập quân sĩ. Do đó sau nầy có
người gọi phong trào nầy là cuộc khởi nghĩa của « Lâm Trung trại ».
Các đảng viên, ngoài những tráng niên võ giỏi, sức mạnh, hăng say với
bầu máu nóng, còn có những nhà giàu ủng hộ bằng tiền gạo nữa. Chẳng bao
lâu « Lâm Trung trại » đã có gần 300 đảng viên với 300 khẩu súng mua của
lính « săng đá » – (lính Pháp) – hay do đảng viên mua từ Xiêm tải về bằng
đường rừng.