con đường cũ về nhà. Cứ đến cửa, thấy con là anh đã vui sướng ôm ngay
lấy nó bế lên hôn, đặt nó lên vai, cù cho nó cười để anh cũng cười với nó.
Hoa nghịch bẩn, anh tức khắc tắm rửa cho con; quần áo lấm của nó anh
giặt lấy. Bữa cơm, anh săn sóc cho nó ăn no rồi anh mới ăn sau. Cả buổi
trưa, Phương ru cho con ngủ. Và trong khi nó ngủ, anh lại vội chụp cái
khăn xếp lên đầu, lồng chiếc áo trắng dài vào cái mình còm cõi, rón rén
bước để nó khỏi thức dậy, xuống bếp dắt xe đạp ra đường, cắm đầu đạp
nhanh đến sở.
Buổi tối Phương nằm kể chuyện cổ tích cho con nghe, để nó mau buồn
ngủ.
Và sáng hôm sau thức dậy, anh lại bắt đầu sống lại cái ngày hôm qua,
hôm kia… Anh lại lo đầy đủ phận sự một người làm công, phận sự một
người cha góa nuôi con dại, phận sự một người đàn ông sống lương thiện,
hiền lành.
Bởi vậy, cuộc đời Phương đều đặn như một cái đồng hồ tốt.
Phương đạp từ từ cho xe chạy chậm trên con đường vắng. Nắng hè chiếu
rát lưng, anh khát, ghếch chiếc xe đạp vào rìa hè, uống cốc nước đá hai xu
rồi lại đạp. Anh đi phơi nắng như thế từ lúc một giờ trưa. Sự điên rồ ấy anh
vẫn có mỗi lần bị những nỗi đau đớn thấm vào tâm hồn, mỗi lần bị những ý
nghĩ chán đời thúc giục và xô đẩy đến gần một sợi dây thừng, một chén
thuốc độc, một lưỡi dao.
Nỗi sầu khổ vì vợ cũng nguôi dần: người đàn bà ấy đã nằm yên dưới mộ
rồi. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, nàng còn cầm tay anh dặn dò: “Anh
gắng… nuôi… con”, và không lúc nào tâm trí anh không vang vọng lời dặn
dò khắc khoải ấy. Bây giờ, anh chỉ biết có yêu con. Nó là lẽ sống của anh,
cho nên, những khi con ốm, anh ôm chặt nó vào lòng và run sợ: Nếu nó