− Bẩm quan lớn, quanh đây có nhiều nấm đất phủ cỏ héo quá mà...
− Mà sao chứ?
Trông như bà già nhưng chị ta vẫn còn frẻ. Trong nỗi đau khổ cùng
cực, chị ta cứ xoắn vặn hai bàn tay xương xẩu nổi đầy gân vào nhau
một cách dữ dội rồi đặt một bàn tay lên cửa xe - nhẹ nhàng, dịu dàng,
cứ như vật vô tri đó là lồng ngực của một con người biết rung động
trước cử chỉ van lơn.
− Bẩm quan lớn, xin nghe con! Bẩm quan lớn, xin đèn trời soi xét!
Chồng con chết đói; rồi sẽ còn nhiều người nữa chết đói.
− Rồi sao? Ta phải cho chúng ăn chăng?
− Bẩm quan lớn, có Chúa linh thiêng chứng giám, con không xin
ngài điều đó. Con chỉ xin một miếng đá hay gỗ có tên chồng con làm
bia đánh dấu chỗ chôn cất. Nếu không nơi này sẽ mau bị lãng quên, sẽ
không còn ai tìm ra mộ phần nữa một khi con đây cũng chết đói theo,
cũng nằm dưới nấm đất phủ cỏ héo nào đó. Bẩm quan lớn; người chết
nhiều quá, ngày càng tăng nhanh, đâu đâu cũng đói mà. Bẩm quan
lớn! Xin ngài!
Tên gia nhân đẩy chị ta khỏi cửa xe, bầy ngựa phóng nước kiệu lao
vọt đi, hai tên mã phu đã thúc ngựa phi nhanh, người đàn bà bị bỏ lại
đằng sau, còn quan lớn - một lần nữa lại được các nữ thần báo thù hộ
tống - đang mau chóng thu ngắn quãng đường mấy dặm trường đưa
ngài về lâu đài riêng.
Đêm hè ngát hương đã bao trùm quanh ngài, và vô tư như mưa rơi,
đêm bao trùm cả đám dân bẩn thỉu, rách rưới, lao lực mỏi mòn ở đài
phun nước ban nãy cách đó không xa; tên phu lục lộ với sự phụ họa
của chiếc mũ xanh đại diện cho giá trị bản thân vẫn còn tán phét về
chuyện người đu xe như bóng ma, chừng nào còn có ai nghe. Dần dần
chán chê, từng người một bỏ đi, ánh đèn nhấp nháy sáng trong ô cửa
nhỏ; rồi ánh sáng trong các ô cửa cũng tắt dần, những vì sao hiện ra
nhiều hơn, cứ như những ngọn đèn không hề bị dập lửa mà đã bay vọt
lên vòm trời lấp lánh.