Tốc độ ào ào của cỗ xe khi phóng ra khỏi làng và lao lên ngọn đồi
xa chẳng mấy chốc đã bị đường dốc đứng ngăn cản. Dần dần, cỗ xe
chậm lại chỉ bằng tốc độ đi bộ, lắc lư, ì ạch ngược dốc giữa đêm hè
ngát hương. Thay cho các nữ thần báo thù là cả ngàn con muỗi mắt bu
quanh hai tên mã phu như một tấm màn the và hai đầu roi bây giờ
không quất ngựa lại lặng lẽ quất vào màn muỗi ấy; tên gia nhân đi bộ
cạnh lũ ngựa; tên phu trạm đi trước đã khuất bóng, chỉ nghe tiếng chân
bước trong vùng âm u đằng xa.
Ngay đỉnh dốc nhất của ngọn đồi là một bãi tha ma nhỏ, có cây
thánh giá trên có một tượng lớn hình Chúa Cứu Thế; đó là một pho
tượng bằng gỗ thô sơ do một dân quê tay mơ nào đó đẽo tạc, nhưng
hắn đã nghiên cứu hình mẫu từ đời thực - có thể là chính cuộc đời hắn
- vì pho tượng gầy gò, ốm yếu kinh khủng.
Trước biểu tượng đau khổ của nỗi đau khổ lớn lao ngày càng tồi tệ
này - và chưa phải là tồi tệ nhất - một người đàn bà đang quỳ. Quay
đầu lại khi nghe tiếng xe ngựa đến gần, chị ta hấp tấp đứng dậy và đến
bên cửa.
− Đúng là ngài rồi, bẩm quan lớn! Bẩm ngài, xin đèn trời soi xét.
Thốt lên một tiếng sốt ruột nhưng nét mặt không hề thay đổi, quan
lớn nhìn ra.
− Lại nữa! Chuyện gì? Lúc nào cũng xin xỏ!
− Bẩm quan lớn. Vì Chúa xin ngài rủ lòng thương! Chồng con,
người tiều phu.
− Tên tiều phu chồng mày bị làm sao? Dân đen chúng mày lúc nào
cũng thế. Chồng mày mắc nợ gì không trả được hay sao?
− Chồng con đã trả sạch nợ rồi, bẩm quan lớn. Chồng con đã chết.
− Tốt! Nó yên thân rồi. Mày muốn ta làm nó sống lại hay sao?
− Ôi, không, bẩm quan lớn! Nhưng chồng con nằm đây, dưới nấm
đất phủ cỏ héo này.
− Rồi sao?