của cái giá lạnh mùa đông ấy.
Và liệu người ta có sẽ nói ra không? Cái ông vua ấy chết thật cao cả, thật
tuyệt vời, với nụ cười nhẫn nhục trên môi, đã lau trong bóng tối một giọt
nước mắt rơi xuống bàn và rung rinh trên tấm thảm thêu vàng lỏng lánh.
Bỗng nhiên có tiếng chân bước ngoài hành lang, rồi cửa bật mở và gian
phòng bừng lên trong ánh sáng khói um của những ngọn đuốc Một giáo sĩ
vận y phục chủ giáo bước vào có hai tên lính gác theo sau. Charles khoát
tay một cách khần thiết cho hai tên lính và chúng đi ra. Căn phòng trở lại
tối tăm.
- Juxon! - Charles reo lên, - Juxon? Cảm ơn người bạn cuối cùng của tôi,
ông đến rất kịp thời.
Vị giám mục đưa mắt lo ngại nhìn nghiêng sang phía người dân ông đang
thổn thức ở góc lò sưới.
- Nào, Parry, đừng khóc nữa, - Vua nói, - đây là Chúa đến với chúng ta.
- Nếu là Parry thì tôi chẳng có gì phải lo ngại, - Giám mục nói. - Vậy thì tôi
xin phép kính chào Hoàng thượng và thưa với ngài tôi là ai và đến đây vì
việc gì.
Nhìn lại người và nghe giọng nói ấy, suýt nữa Charles kêu lên, nhưng
Aramis đặt ngón tay lên môi và kính cẩn cúi chào ông vua Anh quốc.
- Ông hiệp sĩ, - Charles lẩm bẩm.
- Vâng, thưa Hoàng thượng, - Aramis ngắt lời và lên cao giọng, vâng tôi là
giám mục Juxon, người hiệp sĩ trung thành của Chúa Giêsu, đến đây theo
nguyện vọng của Hoàng thượng.
Đã nhận ra D Herblay, Charles chắp hai tay, kinh ngạc và ngẩn người ra
trước những người ngoại quốc này, họ chẳng có động cơ nào khác ngoài
nghĩa vụ mà tự lương tâm họ đặt ra, chiến đấu chống lại ý nguyện của một
dân tộc và chống lại số mệnh của một ông vua.
- Ông đấy à! - Vua nói, - Ông làm thế nào mà tới được đây? Lạy Chúa, nếu
họ nhận ra ông thì ông nguy to.
Parry đứng gần đấy, tất cả con người hắn biểu hiện một niềm khâm phục
hồn nhiên và sâu sắc.
Vừa tiếp tục ra hiệu cho vua im lặng, Aramis vừa nói: