được lưu hành. Tấm lòng đệ tử trả ơn cho thầy, há nên như thế chăng?
Nhưng đạo ta chẳng lưu hành, thì đạo y lưu hành được chăng? Lưu
hành hay chẳng lưu hành, chẳng thấy Khổng Tử bảo rằng: “Đạo hầu
lưu hành chăng? Mạng vậy. Đạo hầu bị bỏ chăng? Cũng mạng vậy.
Công Bá Liêu cãi được số mạng hay sao?” Càng mong quốc sư trong
việc ấy hồi tâm tự xét, chớ để trọn đời mê muội, để bọn tiểu nhơn
nhẫn tâm bịt mắt bưng tai vậy.
Thiết nghĩ quốc vương, quốc sư đều là đệ tử của lão tăng, chẳng
khá chẳng hết lòng vì nhau. Vì vậy chẳng ngại dài dòng, hết lời
khuyến cáo, xin vương lượng xét cho.
Nay kính”
Kể từ ngày thượng nguyên lên thuyền, cuối tháng Giêng đến
nước Đại Việt. Ban đầu lưu trú tại chùa Thiền Lâm Thuận Hóa, kế đến
ở chùa Di Đà Hội An, bị trở gió tại Cú Lũ sơn, lại trở về ở chùa Thiên
Mụ. Vượt qua biển cả, trèo đèo Ngãi Sơn (Hải Vân), trèo non vượt
biển, thấm thoắt đã qua một năm. Hằng ngày cùng với quốc vương và
các đại thần thù tạc, cùng thập phương tứ chúng bàn hoàn, những điều
mắt thấy tai nghe, hoặc thuộc về phương diện chánh trị đắc thất, hoặc
thuộc phong tục chánh tà, nhơn vật sơn xuyên, côn trùng thảo mộc,
tuy những nơi chưa trải qua còn nhiều; nhưng biết xa từ gần, cũng đã
thâu thập được ít nhiều đại khái vậy. Việc bất phân lớn nhỏ, vật chẳng
nệ xấu tốt, hễ gặp việc trọng yếu là chép, thấy vật kỳ dị là biên; há
dám khoe hành đạo nam phương, chỉ muốn đem phong tục ngoại bang
và tất cả những điều mắt thấy tai nghe, trình bày lại với nhân sĩ Trung
Quốc. Hoặc giả, một ngày kia, dời chuyển được di phong tập tục hay
chăng? Năm non bốn biển, dám khoe lịch duyệt như Tứ Trường188.
Rau lạ tre kỳ, há sánh kiến văn bằng Bác Vọng189. Chẳng qua tùy
việc phát lời, gom lời thành tập, vậy thôi.
Trong những lúc đau nằm ở Hội An, dưỡng nhàn ở chùa Thiên
Mụ, tháng ngày qua lại, biết bao thù ứng vãng lai, xúc cảnh hứng tình,
gặp người trò chuyện. Có khi, nhân sự đòi hỏi của người khác, thổ lộ
lòng mình, hoặc cùng viết trong một lúc, hoặc làm thành trong nhiều