cương, pháp độ v.v. Vương duyệt xem rất mừng, nói với Chưởng sự
Nội quan rằng:
“Pháp độ dân tình nước ta chưa được đúng đắn, nay nhờ lão hòa
thượng đem lễ pháp Trung Hoa, vì ta bày tỏ 18 giáo điều, nên khắc
vào bảng treo trước phủ đường, hiểu dụ cho văn vũ quân dân đều biết.
Mặt khác làm 24 thẻ bài, nêu rõ từng loại, nếu có người nào phạm
pháp, trái điều luật, sẽ cho kẻ bị thiệt hại cầm thẻ bài đến thưa; bất
luận vương thân quốc thích văn vũ quân dân, đều cứ xét luật trị tội,
vĩnh viễn nêu làm phép nước”.
Lại ngày sau nữa (26 tháng Tư) Minh vương nghe Đại Sán dự
định đến tháng Sáu sẽ trở về nước, bèn mời Đại Sán vào cung khẩn
khoản xin lưu lại; trên tiệc, Đại Sán thuật chuyện Thanh Thế Tổ sùng
tín Tam bửu, hoàng đế đương kim (tức Thánh Tổ) rất thần thông nhơn
từ và các viên Lưỡng Quảng Tổng đốc, Tướng quân, Đề đốc, Tư đạo
rất thanh liêm tài cán; nhơn khuyên Minh vương làm biểu văn cầu
phong. Vương đáp rằng:
“Nay nghe lão hòa thượng thuật chuyện, mới biết rõ ràng. Ta ở
nơi góc biển xa xôi, vốn chẳng am tường lễ giáo; tuy sẵn lòng quy
thuận, nhưng tiểu quốc xưa nay chưa tiến cống lần nào, nay đường đột
dâng biểu thỉnh phong, e biên giới đại thần chẳng sẵn lòng đề đạt, chỉ
mất công đi về mà thôi. Lão hòa thượng đã chẳng chịu lưu lại hạ bang,
sau khi hoàn sơn (về chùa) xin vì ta trần tình với các nhà đương sự
tỉnh Việt. Nếu tiếp được tin cho phép tiến cống, ta sẽ sắm sửa các vật
thổ sản và làm biểu dâng lên ngay, quyết chẳng sai lời”.
Đại Sán viện những lý do: “Nhơn tạm nghỉ qua nam, còn chờ
ngày phải đi lên phương bắc; vả lại, xây cất nhà cửa chưa xong, đại
chúng đương chờ đợi” v.v, ngày mồng 3 tháng Sáu, từ giã Minh vương
xin đi, và quyết định ngày rằm tháng Sáu sẽ dời khỏi Thuận Hóa đi
Hội An để sắp sửa ngày về nước cho kịp mùa thu gió thuận. Quốc
vương lưu lại đãi chay, mỗi lúc nói đến chuyện chia phôi, nghẹn ngào
bảo rằng: