Triều ta (Đại Sán tự nói) Khang Hy hoàng đế thống trị chín châu,
mười lăm tỉnh, đất rộng mấy muôn dặm, giáp binh hùng mạnh cả ngàn
trăm muôn; mà đất nước Đại Việt lại gần kề tỉnh Quảng Đông; nếu
khiến sứ thông hảo với các quan Đốc vũ Tướng quân, rồi sau dâng
biểu tiến cống triều đình, xin phong vương để chính vị hiệu, lấy thanh
thế Quảng Đông làm nương tựa, thì bọn tiểu khấu các nước lân cận tự
nhiên kiêng sợ chẳng dám dòm hành; thực danh chính lý thuận, ngồi
hưởng thái bình” một việc làm vạn toàn vậy. Người xưa bảo “chẳng
đánh mà binh giặc phải thua”, chính là như thế. Những lý do thông
hảo nhà vua sẽ tường trần sau.
2. Đặt binh đồn thú để cúng cỗ biên thùy
Bản quốc địa giới liên tiếp Đông Kinh (Bắc kỳ), chỉ cách một con
sông, dọc biên giới chắc có nhiều nơi nên đóng binh trấn giữ. Binh ít
thì sợ khi xung đột, binh nhiều thì hao tổn khó lòng, hai lẽ đều khó
tính. Lão tăng xem xét sơn xuyên hình thế, có cách giảm bớt binh số,
chỉ đặt cơ binh (cũng như binh lưu động) mà có thể cố thủ được; nếu
nhà vua dùng sẽ xin tâu bày sau.
3. Thương yêu binh sĩ để khích lệ lòng trung dũng
Thời xưa trong việc võ bị, chẳng hề phân biệt binh dân, lúc vô sự
an cư vườn ruộng, lo việc cấy cày, đến khi có việc chiến tranh, ra tòng
chinh sung vào đội ngũ. Mỗi năm lúc nông công nhàn rỗi, đem ra tập
luyện, giảng cho biết nghĩa tôn quân thân thượng, dạy cho rành phép
tác chiến giao phong; bình thời được vui sống với gia đình, hữu sự ra
tận trung báo quốc; tự nhiên dũng khí bách bội, ai nấy đều vui lòng đi
lính, chống kẻ xâm lăng. Nay nghe dân trong nước một lúc đã ghi tên
vào sổ lính, trọn năm phải phục dịch quan phủ không được về làng
thăm viếng cha mẹ vợ con; như vậy tuy chúng sợ phép phải tuân theo,
nhưng trong lòng sao khỏi oán hận. Sao chẳng khiến quân sĩ luân
phiên theo diễn, mỗi năm ở quan phủ phục dịch huấn luyện chừng một
quý hay nửa năm; hết hạn cho về làng cày bừa, cùng với gia đình đoàn
tụ; bắt chước theo phép quân đồn ngày xưa. Đến lúc có việc phải hưng
sư, bắt ra tòng chinh, ai lại chẳng hết lòng phò chúa. Như thế người