bắt bọn chúng đem về trình lão hòa thượng, bắt mỗi người phải cầu
chịu 3 đàn giới luật, mới được cấp cho giới điệp, miễn trừ giao dịch tô
thuế. Lão hòa thượng nên ra báo cáo thông tri, định ngày từ mồng 1
đến mồng 8 tháng Tư sẽ viên mãn cả 3 đàn cũng được. Tôi sẽ đem
quyến thuộc và bá quan văn võ, ai có tín tâm, đều cầu làm Bồ Tát giới
đệ tử, xin hòa thượng đặt cho đạo hiệu pháp danh v.v.”
Ngày 13 tháng Ba, tốp thứ hai, bọn tăng chúng theo hầu Đại Sán,
cũng từ Quảng Châu đến Thuận Hóa bình yên, đồng thời, những liêu
xá, bàn ghế, khí mãnh cần dùng để mở giới đàn, cũng đều do Minh
vương ra lệnh trù biện hoàn bị. Ngày mồng 1 tháng Tư, pháp hội long
trọng khai mạc, do Đại Sán truyền Sa di giới, ngày mồng 6 lại truyền
Tỳ kheo giới, mồng 8 ngày Phật đản, Minh vương đưa vương mẫu,
công chúa, hậu cung quyến thuộc, đồng thụ Bồ Tát giới và quỳ thụ Hộ
pháp Kim thang thư; ngày thứ (tức mồng 9) Đại Sán truyền Bồ Tát
giới cho tăng chúng; qua 3 ngày sau (tức ngày 12), Đại Sán suất quốc
sư hai hàng, đới lãnh hơn 1.400 tân giới đệ tử, mặc cà sa, cầm bình
bát, cử hành lễ cổ Phật khất thực và tạ ơn Minh vương đã thành tựu
công đức. Minh vương mời hai hàng sư vào cúng chay, đãi trà bọn tân
giới đệ tử và ban thêm 300 quan tiền, 100 thạch gạo, khiến quân nhơn
gánh đến chùa Thiền Lâm; lại đem tất cả giới điệp có đóng kèm vương
ấn, ban cấp cho tăng nhơn, những người đã tham gia pháp hội. Đến
đây, Phật lễ lớn nhất từ xưa đến nay tại Quảng Nam, mới tuyên bố bế
mạc.
Trong lúc yết kiến Minh vương giữa ngày rằm tháng Hai trước
đây, Đại Sán cảm thấy: “Ngôn ngữ chẳng thông hiểu nhau, tuy có
thông ngôn cũng chưa chắc minh lý, mười điều phiên dịch không được
ba, bốn, khiến trong lòng có bao nhiêu điều muốn nói, chẳng làm sao
uyển chuyển đề đạt được lên quốc vương”; nhơn đem các việc muốn
nói viết ra giấy trình lên Minh vương. Trình bày tất cả bốn điều, phân
biệt rõ ràng các lẽ đắc thất lợi hại. Nội dung như sau:
1. Cống hiến Trung triều để chính danh hiệu