trọng yếu nhất. Việc ấy nhằm mục đích cứu tế nhơn dân Quảng Nam
đương thời và thanh trừng những phần tử trụy lạc trong giới Phật giáo.
Sau khi Đại Sán đến Quảng Nam bốn ngày, Minh vương khiến Nội
Giám và các quan bộ Công suất lãnh lính và thợ hơn nghìn người,
trong 3 ngày đêm phải làm xong 5 gian phương trượng và 5 gian liêu
xá để làm nơi cư trú cho thầy trò Đại Sán. Đại Sán trong sách Hải
ngoại kỷ sự, cảm thán công tác nhanh chóng và tả tình cảnh của quân
nhơn công dịch như sau:
“Nhơn hỏi thăm, biết rằng trong nước trăm thứ thợ đều quân
nhân làm. Mỗi năm khoảng tháng Ba, tháng Tư quân nhân ra các làng
bắt dân, những người 16 tuổi trở lên, thể chất cường tráng, đều bắt
sung quân, xiềng cổ bằng một cái gông bằng tre, hình như cái thang
nhưng hẹp hơn. Ai tình nguyện tòng quân sẽ được cho học chuyên
môn một nghề, thành nghề rồi phân bát vào đội chiến thuyền để luyện
tập; lúc hữu sự ra trận đánh giặc, vô sự bắt làm công dịch trong quan
phủ, chưa đến 60 tuổi chưa cho về làng chung sống với cha mẹ vợ
con, hằng năm, thân nhân đem áo quần vật thực đến thăm mà thôi. Vì
thế dân còn lại đều ốm yếu tàn tật, ít có người tráng kiện, cha mẹ sợ
con bị bắt lính, con lớn tuổi liền cho đi ở chùa làm sãi, may ra được
khỏi. Vì cớ ấy tăng đồ rất đông, nhưng Phật pháp cũng do đó sinh ra
hỗn loạn, chẳng những thiền tông tuyệt nhiên không đếm xỉa, cho đến
các việc “luật”, “luận”, cũng buông trôi chẳng chút quan tâm, đến đỗi
những phường áo tràng mão ni, nết xấu tật hư còn quá dân quê nơi
làng mạc”.
Đại Sán cho tệ phong ấy chẳng khá kéo dài, bèn thảo một bài
văn, dán lên các cửa chùa để quảng cáo Quảng Nam nhơn sĩ, mặt khác
Minh vương cũng thương tâm vì thấy Phật pháp trong nước hỗn loạn,
ít kẻ chân chính tu hành, vả lại, chính giáo kỷ cương trong nước còn
nhiều việc phải canh cải, muốn đem phỏng vấn Đại Sán.
Ngày rằm tháng Chạp, từ sáng sớm rước Đại Sán vào phủ, cùng
nhau đàm đạo đến nửa đêm, trên tiệc Minh vương biểu thị rằng: “Tăng
chúng phần đông chẳng giữ giới luật, tôi sẽ phát lệnh bài đi các phủ,