Kinh kệ cũng tao đàn.
Tài hèn thương tóc bạc,
Sức khỏe đáng kho vàng.
Hiểm trở tùy lòng thế,
Thâm nghiêm mặc cửa quan.
Hư danh lòng chẳng muốn,
Đâu cũng cảnh hồ san.
Chiều ngày 10 (tháng Ba năm Ất Hợi), Quốc vương sai Nội giám
đến báo tin mừng: “Vừa tiếp báo cáo của quan địa phương, nói thuyền
sau của lão hòa thượng đã đến đảo Tiêm Bích La. Quốc vương đã ra
lệnh cho thuyền điến xá (thuyền đánh cá)83 đón tiếp đồ đệ và vật hạng
của lão hòa thượng, nay mai sẽ ra đến nơi”.
Đêm 13 (tháng Ba năm Ất Hợi) thuyền ra đến Thuận Hóa. Sáng
sớm tăng chúng lên yết kiến, người nào cũng chân tay lấm láp, mặt
mày cháy đen. Chúng thuật chuyện rằng: “Thuyền ra cửa từ ngày 20
tháng Hai, chỉ được một ngày một đêm thuận gió, còn quá nửa tháng
dật dờ trôi nổi trên mặt đại dương. Chúng đã trông thấy biết bao quái
lạ, có những chim quạ lớn, lông đuôi dài thòng như đeo mũi tên, gọi là
quạ “mũi tên” (tiễn nha), hằng ngày hay liệng trên cột buồm. Lại trên
mặt sóng, có những cây cờ lệnh nhỏ, hoặc đỏ hoặc đen, khi chìm khi
nổi, cây này trôi qua cây khác kéo đến, liên tục hàng vài mươi cây.
Người trong tuyển ngó nhau sợ hãi, không dám lên tiếng. Người ta
bảo đó là những thuyền ma, ai gặp thấy thì bất lợi. Ngày nọ ba đào
hùng dũng, mây kéo mịt mù, phía tả thuyền có một con rồng đen uốn
lượn lù lù hiện ra. Thủy thủ phải đốt lưu huỳnh, lông gà, lấy đồ dơ uế
vẩy lên, khiến quái vật không dám sáp lại. Lại một đêm nọ, mây kéo
tối mò, trăng sao chẳng có; thình lình một hòn núi lửa nổi lên ở sau
thuyền, ánh sáng rọi lên mặt buồm, như ánh lửa cháy đồng phản chiếu;
dần dần núi lửa ấy đi lên ngang hàng với thuyền, bọn thủy thủ ùa ra
lấy cây củi gõ vào mạn thuyền liên thanh. Chừng hai canh sau, nghe
bánh lái chạm vào mình vật ấy. Thuyền hơi quay lại và quái vật liền
biến mất. Vật ấy tức là một loài cá hải thu, ánh sáng là luồng điện của