Đến đây ắt có đem nguồn lợi,
Âu cũng nhơn duyên tự hóa công.
Bài khải trên lời lẽ uyển chuyển, ý tứ sâu xa, nhưng bàn về “Ma
ha”, “Chơn như” có hơi cưỡng lý, chưa được thích đáng, cần phải có
đôi lời tỏ lại cùng nhau.
Nhơn họa vần bài thơ và viết bài khải trả lời rằng:
Mỗ, chắp tay kính đáp thư,
Đại Học sĩ Quân hầu các hạ.
Gió đức dịu hòa, dân chúng đội ơn mưa móc,
Bóng thiều sáng chói, quốc gia vững thế phiên bình.
Quân sĩ hân hoan,
Gần xa chiêm ngưỡng.
Nay kính,
Đại học sĩ Ký lục Tôn công,
Rồng thiêng trên thế,
Ngựa hay nhà trời.
Văn võ toàn tài, trong bụng bao hàm tượng vĩ,
Khuê chương rạng vẻ, cõi ngoài coi việc tuần tuyên.
Chốn đơn đình cầm bút xuân thu,
Nơi tứ phủ vui tình phong nguyệt.
Học nho kiêm hiểu Phật, từ trí tri cách vật, thấu dò tính mệnh gốc
nguồn,
Giảng Dịch biết đạo trời, do xem tượng chiêm hào, biết rõ âm
dương chí lý.
Trương Vô Tận thuở trước, làm tướng thần mà biệt đãi Đức Sơn,
Lý Tuân Húc ngày xưa, làm Đô úy mà kính tôn Cốc Ẩn.
Chỉ muốn dốc lòng vì đạo,
Há cam lãng bỏ niềm tu.
Thầy Chu học rộng, thầy Trình hiểu sâu, chưa được thấy người,
đã từng nghe tiếng,
Ông Hồi như ngu, ông Sâm lỗ độn, nhớ nhung thuở trước, than
tiếc ngày nay.