của phòng ấy cũng có một cửa khác. Theo cách bố
trí, chắc phải ở kia rồi.
Với Raoul, ổ khoá không phải là một chướng ngại
vật đáng kể. Trên người anh lúc nào cũng có bốn
hoặc năm dụng cụ nhỏ, anh có thể mở được những
cánh cửa khó mở nhất. Ngay với lần thử đầu tiên, tấm
cửa ấy đã ngoan ngoãn phục tùng. Vừa nhẹ nhàng hé
mở, không thấy có một tia sáng nào hé ra ngoài, anh
đẩy tiếp, lách người vào trong. Người ở ngoài không
thể nhìn thấy anh, cũng không thể nghe được tiếng
động, và hơn nữa cũng không nghe được tiếng người
nữ tù nhân mà những tiếng nức nở âm thầm vang lên
thành nhịp trong cái thầm lặng của gian phòng.
Người thợ kể chuyện cuộc truy đuổi qua rừng cây.
Chính ông đã phát hiện ra “vật săn lùng” trong bãi
cây con dưới tia sáng của chiếc đèn xách - Tên du
côn - theo cách nói của ông - mảnh khảnh và vóc
người cao hơn, nhanh như một con thỏ rừng đã chạy
thoát. Nhưng ông phải quay lại đuổi sát gót và dẫn
được một tên bé nhỏ về. Kể ra trời tối đen như mực
nên chuyện săn lùng không thuận lợi. Người thợ kể:
- Ngay sau đấy, thằng nhỏ ấy rên rỉ. Cái giọng của
nó thật buồn cười như thể giọng con gái. Nó thì thào
đầy nước mắt: “Ông quan toà đâu ? Tôi sẽ nói tất cả...
yêu cầu dẫn tôi đến trước ông ấy”. Những người nghe
nó nói đều cười ồ lên.
Raoul lợi dụng lúc ấy để chui đầu vào giữa hai
chồng hòm xiểng xếp thưa nhau. Như vậy là anh đã ở
sau đống bưu kiện chất đống nơi người nữ tù nhân đã
lả đi. Lần này chắc cô đã nhận thấy có tiếng động, vì
những tiếng nấc đã ngừng. Raoul nói thầm:
- Cô đừng sợ.
Người con gái im lặng. Anh lại nói tiếp: