và pháp trị của Hàn, dùng chính sách chuyên chế, cực tôn quân của Hàn mà
cũng dùng Tứ thư và Ngũ kinh để dạy dân, một mặt bắt dân phải tận trung
với vua nhưng một mặt cũng nhận rằng vua phải được lòng dân theo ý dân,
yêu dân.
Người đầu tiên chê Hàn Phi có lẽ là Lưu An (Hoài Nam vương). Lưu bảo
Hàn không biết trọng cái gốc của việc trị nước, tức nhân nghĩa mà chỉ vụ
cái ngọn, tức hình pháp.
Các nhà Nho thời sau phần nhiều đều theo luận điệu đó, như: “giáo hoá
không đủ mà dùng hình pháp thì dư” (Tô Thức); “Tần, Hàn được yên một
thời mà cái hại thì lâu dài” (Tô Triệt)…; nhưng cũng có nhà công bình
hơn, vừa khen vừa chê.
Tư Mã Thiên bảo: “Hàn Tử… chú trọng tới thực tế (thiết sự tình) phân biệt
rõ phải trái, nhưng lòng quá cứng như đá (uy nhiều mà ít ân)”.
Đường Tử Tây cho rằng Khổng Minh khuyên Hậu chủ (con Lưu Bị) đọc
Hàn Phi là phải vì Hậu chủ quá khoan hậu, thiếu quyền lực, mưu trí.
Chu Hi chỉ khen thuật du thuyết của Hàn (thiên Thuế nan) là cực tinh vi.
Phùng Hữu Lan kín đáo bảo Hàn “cũng là một kẻ sĩ tích cực cứu thế” (diệc
tích cực cứu thế chi sĩ dã). Lời đó gọn mà hàm súc.
Muốn tích cực cứu thế thì phải cực đoan; thời càng loạn thì sức phản động
phải càng mạnh, phải dùng độc để trị độc, phải mổ nhọt như Hàn đã nói.
Cho nên ba nền văn minh lớn của nhân loại: Ấn, Hoa, Âu tới một thời loạn
nào đó, đều sản xuất những chính trị gia trọng pháp luật.
Ở Ấn, khoảng một thế kỉ trước Hàn Phi, sau cuộc xâm lăng của vua Hi Lạp,
Alexandre dưới triều Chandragupta, có Kautilya, tác giả cuốn Arthasastra;