chứ không dùng trí tuệ) của ông, hậu quả là chủ trương vô vi của ông hoá
ra cực hữu vi, trái ngược hẳn với bản ý của Lão, Trang.
Còn Âm dương gia và Tung hoành gia thì bị ông khinh rẻ.
Rốt cuộc chỉ còn có Pháp gia - đặc biệt là Thận Đáo, Thân Bất Hại và
Thương Ưởng – là được ông gần như hoàn toàn tán đồng. Ông tập đại
thành học thuyết của họ và của Tuân Tử, điều chỉnh, bổ túc, khai triển,
dựng được một lịch sử quan tiến bộ, một xã hội quan thiên lệch nhưng độc
đáo, nhất là đưa ra một chính sách trị dân lập trên ba chân vạc: thế, pháp,
thuật, làm cho lí thuyết về pháp luật được hoàn chỉnh và phương pháp dùng
người được hữu hiệu. Đó là những cống hiến đáng kể trong học thuyết của
ông thời Chiến Quốc.
Để cứu vãn một xã hội loạn lạc, chia rẽ, suy nhược, học thuyết của Hàn có
lợi hiển nhiên; nhưng khi xã hội đã bình trị rồi, thì nó không cần thiết nữa
mà còn có hại vì có nhiều khuyết điểm; dùng uy quá nhiều, không hợp tình,
coi con người như loài vật; quá trọng nông nghiệp và võ bị, ghìm công và
thương, mà không một nước nào chỉ trông cậy vào nông nghiệp, võ bị mà
giàu có, văn minh được; nhất là bỏ cả đạo đức, lễ nhạc, giáo dục, chỉ cho
dân học luật pháp. Phải trọng sự thực khách quan và trong thời loạn thì
pháp luật phải nghiêm (chỗ này chắc sắp chữ bị sót); thực tiễn có thể là cực
chân lí nhưng chỉ nghĩ đến cái lợi ngắn hạn, mà quên cái lợi dài hạn thì
chưa chắc đã phải là thực tiễn.
Chúng tôi không biết Lí Tư và Tần Thuỷ Hoàng đã áp dụng học thuyết của
Hàn Phi tới mức nào trong việc thống nhất Trung Quốc, cũng không biết
Hàn Phi chịu trách nhiệm tới mức nào trong sự suy sụp quá mau của nhà
Tần; nhưng cả Lục Giả lẫn Giả Nghị ở đầu đời Hán đều cho rằng Tần mất
thiên hạ vì quá trọng hình pháp, quá bạo ngược với dân, không biết rằng
không thể dùng chính sách lấy thiên hạ để trị thiên hạ được. Đời sau – Hán,
Đường, Tống, Minh, Thanh – khôn hơn, đã dung hoà nhân trị của Khổng