mức độ tiêu hoá có thể thấy rằng nạn nhân đã thưởng thức bữa ăn chừng
nửa tiếng trước khi chết.
“À,” Kohl rạng rỡ, ghi lại tất cả các thông tin này bằng bút chì vào cuốn
sổ tay bé xíu, rách nát của ông.
“Chuyện gì vậy sếp?”
“Đây mới là thứ khiến chúng ta quan tâm này, Janssen. Trong khi chúng
ta không thể lạc quan, có vẻ như nạn nhân đã chén một suất ngon trong bữa
ăn cuối cùng. Có khả năng là món thịt gà hầm với rượu vang đỏ, một món
hảo hạng của Pháp gồm có gà ăn với một loại rượu không chắc có phải
vang đỏ không. Thông thường là rượu Burgundy như Chambertin. Chúng
ta không thường xuyên trông thấy nó, Janssen. Cậu biết tại sao không? Bởi
vì những người Đức làm vang đỏ rất kém, còn người Úc làm vang đỏ tuyệt
vời nhưng không gửi nhiều sang cho chúng ta. Đúng rồi, điều này hay đấy.”
Ông suy nghĩ một lúc rồi đứng dậy, bước đến chỗ tấm bản đồ Berlin heo
trên tường. Tìm thấy một cái ghim, ông gắn nó vào ngõ Dresden. “Ông ta
chết ở đây vào buổi trưa trước khi ăn trưa tại một nhà hàng 30 phút trước
đó. Cậu nên nhớ ông ta là người hay đi bộ, Janssen, những cơ bắp trên chân
ông ta từng khiến tôi xấu hổ, cả những vết chai nữa. Vì thế trong khi ông ta
có thể đã bắt taxi, hoặc tàu điện ngầm đến với cuộc gặp gỡ chết người,
chúng ta giả sử rằng ông ta đã đi bộ. Cứ du di cho ông ta thêm vài phút hút
thuốc sau khi ăn xong… cậu còn nhớ những đầu ngón tay vàng khè của ông
ta không?”
“Không hẳn, thưa sếp.”
“Phải chịu khó quan sát hơn đi. Trừ thời gian ông ta hút thuốc, thanh
toán rồi uống nốt cốc cà phê, chúng ta sẽ giả sử rằng ông ta đi bộ với đôi
chân khỏe mạnh trong 20 phút, trước khi đến ngõ Dresden. Trong thời gian
đó, người đi bộ nhanh nhẹn này sẽ đi được bao xa?”
“Tôi sẽ đoán là cây số rưỡi.”
Kohl nhíu mày. “Tôi cũng đoán vậy.” Ông xem xét ghi chú trên bản đồ
Berlin, vẽ một hình tròn quanh địa điểm vụ giết người.
Janssen lắc đầu. “Nhìn xem. Nó quá rộng. Chúng ta cần mang ảnh nạn
nhân đến mọi nhà hàng nằm trong vòng tròn đó?”