tôi-tớ rất giỏi, mà không có cái tư-cách làm người tự-chủ nữa.
Đại-khái những việc ấy ta có thể xem sách vở của Tây hay của ta mà biết
được, còn những việc xảy ra ở kinh-thành Huế sau khi vua Dực-tông mất
rồi, thì ít người biết được rõ. Việc triều-chính lúc ấy rối loạn do hai người
quyền-thần muốn thừa cơ mà chuyên-quyền túng-tứ. Hai người ấy là
Nguyễn văn Tường và Tôn-thất Thuyết, một người coi tiền-tài và quan-lại,
một người giữ hết cả binh-quyền ở trong tay. Hai người thoạt đầu tiên đổi
di-chiếu của vua Dực-tông, bỏ hoành-trừ Dục-đức, cách chức quan ngự-sử
Phan đình Phùng và lập vua Hiệp-hòa. Được hơn bốn tháng sau, hai người
lại bỏ vua Hiệp-hòa rồi đem giết đi, giết cả quan nguyên Phụ-chính Trần
Tiễn-Thành và lập vua Kiến-phúc. Lúc bấy giờ Tôn-Thất Thuyết mộ quân
Phấn-nghĩa để giữ mình và thường hay tiếm dùng nghi-vệ của vua; Nguyễn
van Tường thì lấy tiền hối-lộ của lũ khách buôn, cho chúng đem một thứ
tiền đúc ở bên Tầu, theo niên-hiệu Tự-đức, gọi là tiền sềnh, tiền rất xấu và
rất mỏng, bắt dân ở kinh-kỳ phải tiêu.
Vua Kiến-phúc lên làm vua được sáu tháng thì mắc bệnh, mất một cách khả
ngờ. Tường và Thuyết lập ông Ưng-Lịch mới 12 tuổi lên làm vua, tức là
vua Hàm-nghi. Triều-đình lúc ấy việc gì cũng do hai người quyền-thần ấy
quyết-định tất cả. Ông Dục-đức đã bị truất, không được làm vua, đến bấy
giờ cũng bị giết. Hoàng -thân quốc-thích ai làm điều gì trái ý hai người ấy
đều bị giết hay bị đày.
Những việc ấy đều là việc bí mật ở trong triều, người ngoài khó mà biết
được rõ ràng. May nhờ lúc ấy có bà Lễ-tần Nguyễn-nhược-Thị đem những
sự bà đã tai nghe mắt thấy mà kể ra trong một bài ca có 1018 câu thơ lục
bát, gọi là Hạnh Thục Ca.
Bà Nguyễn-nhược-Thị (1830-1909) người ở Phan-rang, thuộc tỉnh Khánh-
hoà, con gái quan Bố-chánh Nguyễn-nhược Sâm. Bà có khiếu thông-minh,
nổi tiếng có tài văn-học, được tuyển vào trong cung ngay từ đầu đời Tự-
đúc, rồi được phong chức Lễ-tần là một chức nữ-quan dưới bậc phi. Sau bà
được cử làm chức bí-thư hầu bà Từ-dụ Thái-hậu là mẹ đức Dực-tông. Vua
Dực-tông thờ mẹ rất có hiếu, mỗi tháng cứ 15 ngày thiết triều bàn việc
nước với các quan, 15 ngày sang chầu cung, tức là sang chầu mẹ, trong