đi của một người lớn tuổi, vì người ta luôn luôn nghĩ như vậy là trái đất này
bớt đi được một kẻ có thể là ác nhân, còn đối với một đứa trẻ con thì dù sao
vẫn có tương lai hơn.
Biết được những khó khăn của tôi, Párapine không hỏi thêm gì nữa mà
chỉ giúp cho tôi tìm ra hướng điều trị ca hiểm nghèo này. Chỉ phải nỗi,
trong hai chục năm qua, ông đã biết quá nhiều điều và thường là mâu thuẫn
với nhau về bệnh thương hàn, nên đến nay ông càng thấy quá nặng nhọc,
thậm chí có thể nói không còn khả năng đưa ra một lời khuyên rõ ràng dứt
khoát nào trong việc điều trị một chứng bệnh đã quá nhàm.
Ông hỏi tôi:
- Đồng nghiệp thân mến, trước hết anh có tin vào việc dùng huyết
thanh không? Sao, anh bảo sao? Vậy thì tiêm chủng?... Tóm lại, cảm tưởng
của anh thế nào?.... Tài trí gì đi nữa thì bây giờ cũng không bằng tiêm
chủng vacxin... Tất nhiên như thế là táo bạo đấy, đồng nghiệp ạ... Tôi cũng
thấy thế... Nhưng đành vậy chứ sao? Hử? Đành thế thôi? Anh có thấy cái
đúng đắn trong thứ tư tưởng phủ định này không? Anh nghĩ sao?
Mỗi câu của ông nối nhau nhảy vọt từ miệng ra dữ dội giữa hàng tràng
những tiếng “R” khá nặng.
Trong lúc ông gầm lên như một con sư tử giữa những giả thuyết mãnh
liệt và tuyệt vọng, thì Jauniset, khi ấy vẫn còn sống vằ là một đại thư ký
danh tiếng, đi qua dưới cửa sổ đúng lúc và ngạo nghễ.
Vừa thấy lão ta là Parapine tái mặt đi và bực dọc chuyển câu chuyện,
vội vàng cho tôi thấy ngay tất cả cái kinh tởm gây cho ông hàng ngày mỗi
khi thấy mặt lão Jaunisset dù lão được mọi người ca ngợi. Chỉ trong chốc
lát, ông đánh giá đủ mặt về lão Jaunisset nổi tiếng này, nào là kẻ gian trá,
kẻ gàn dở vào hạng đáng gờm nhất, và còn buộc cho lão những tội ác kinh
khủng chưa từng có và được giữ kín, nếu đem ra xử lý thì lão phải rũ tù ít
cũng một trăm năm.
Và tôi không sao can ngăn được Parapine nêu ra hàng trăm hàng nghìn
chi tiết hờn căm trong cái nghề hài hước của nhà nghiên cứu mà ông vì
miếng ăn phải gò mình trong nỗi căm hờn chính xác hơn, khoa học hơn là