khoang xe đang chạy. Hai khoang đầu tiên lướt qua chất đầy người đến nỗi
ông chẳng buồn thử đuổi theo. Tuy vậy, ông đã bắt kịp khoang xe thứ ba
đúng vào đoạn nó chuẩn bị leo lên dốc.
Ông ngồi trong khoang xe điện cho tới trạm cuối cùng: Fisherman s Wharf,
một cảng cá cũ của San Francisco, nay bị lấn chiếm bởi các nhà hàng dành
cho khách du lịch và các cửa tiệm bán đồ lưu niệm. Run lẩy bẩy vì lạnh,
Elliott băng qua các quầy đồ hải sản nơi những người bán cá đang hồ hởi
xé mai những con cua bể còn sống nguyên trước khi nhấn chúng vào trong
những chiếc nồi khổng lồ xếp dọc theo vỉa hè. Khi ông tới quảng trường
Ghirardeli thì mưa càng trở nên nặng hạt. Ông đi ngang qua khu xưởng lâu
đời chuyên sản xuất sô-cô-la để tới pháo đài Mason.
Lập cập và run rẩy vì cái lạnh thấu xương, ông tiếp tục rảo bước. Gió rít
thành từng cơn chói tai trộn lẫn nước mưa quất vào mặt ông. Vì phải cố
sức, các vết thương trong phổi và bên dưới thắt lưng lại càng trở nên rát
bỏng, song chúng chẳng thể ngăn ông thôi tìm con gái. Ông biết có một nơi
cô thường hay tìm tới những lúc buồn.
Cuối cùng ông cũng ra được đến bờ cát nằm giữa Marina Green và một
vùng đất xưa kia là bãi chiến trường thuộc Crissy Field. Biển động dữ dội
và những đợt sóng lừng hắt tung bọt biển lên xa hàng chục mét. Elliott
nheo mắt nhìn: cầu Cổng vàng gần như đã biến mất trong đám sương mù
và những làn mây thấp lè tè. Bãi biển vắng tanh, hoàn toàn bị bao phủ bởi
một làn mưa dày đặc. Ông tiến nhanh hơn về phía trước và hét điên cuồng:
- Angie! Angie!
Thoạt đầu, chỉ có tiếng gió đáp lại lời ông. Đôi mắt ông nhoà đi và ông
chợt cảm thấy mình yếu đuối, mệt mỏi, gần như kiệt sức.
Rồi dường như ông thấy tiếng cô, mà không nhận rõ ra được từ nơi nào
vọng tới, cho tới khi ông nghe thật rõ:
- Bố!
Angie đang chạy về phía ông, xuyên thủng màn mưa đang đổ xuống như
trút nước.
- Bố đừng chết! Cô van vỉ. Bố đừng chết!
Ông ôm chặt cô vào lòng và hai cha con đứng ôm nhau như vậy hồi lâu,