giờ, anh vẫn đi theo một lộ trình không hề phạm sai lầm: học rất giỏi ở
Berkeley đến mức đã được đặc cách nhảy cóc hẳn một lớp, rồi theo học
ngoại trú ở Boston, rồi bốn năm nội trú và theo học rất nhiều ngành chuyên
sâu về nhi tại bệnh viện của anh. Mỗi lần kết thúc một kỳ, anh đều tốt
nghiệp với những lời khen nồng nhiệt.
Tuy vậy, anh vẫn chưa thật tin tưởng là mình được sinh ra để làm nghề này.
Tất nhiên, nó mang lại cho anh sự mãn nguyện khi được chăm sóc mọi
người và tự cảm thấy mình có ích. Đôi khi, kết thúc một ngày đẹp trời, khi
anh có cảm giác ca phẫu thuật của anh đã cứu được mạng sống choai đó,
anh rời nơi làm việc với một cảm giác sảng khoái. Anh ra lấy xe và lái như
bay dọc bờ biển. Anh đã đấu tranh vì sự sống và anh đã chiến thắng. Những
tối như vậy, trong vài giờ đồng hồ, anh thường cảm thấy mình gần như
ngang hàng với Chúa. Nhưng niềm hạnh phúc ấy thường không bao giờ
kéo dài. Rồi luôn luôn có một ngày hôm sau, một ngày hôm sau nữa, khi
bệnh nhân "lẽ ra không phải chết" lại vuột khỏi tay anh.
Anh nhìn đồng hồ, dụi tắt điếu thuốc lá và rảo bước. Bệnh viện giờ đã hiện
ra chỉ còn cách anh khoảng trăm mét.
Có thật là mình sinh ra để làm việc này không? Lại một lần nữa anh tự đặt
cho mình câu hỏi ấy.
- Anh sẽ trở thành loại bác sĩ nào đây? Anh đã lựa chọn con đường này để
hoàn thành một lời hứa cũ, sau khi một sự kiện quan trọng đã xảy ra trong
đời anh. Anh không hối hận về lựa chọn của mình, nhưng có những ngày
anh rất thèm có được một cuộc sống vô lo vô nghĩ như Matt. Từ mười năm
nay anh đã chẳng còn thời gian cho việc gì nữa cả: không đọc sách báo,
không chơi thể thao, chẳng còn quan tâm đến điều gì khác ngoài việc của
mình.
Anh bước vào trong sảnh bệnh viện, vớ lấy áo blu và leo lên tầng ba. Tấm
gương trong thang máy phản chiếu hình ảnh một người đàn ông mỏi mệt.
Đã từ lâu lắm anh không được ngủ một mạch tám tiếng đồng hồ. Từ khi
những ca trực đêm đã dạy cho anh cách ngắt giấc ngủ ra và cuộn người ngủ
thành từng quãng mười phút một, anh không thể cố ngủ muộn vào buổi
sáng được nữa.