tử. Trong khi xoay nhẹ đầu bệnh nhân từ phải sang trái, Elliott nhận thấy
mắt cô bé không hề chuyển động theo chiều quay đầu. Rồi khi anh nhấn
thử vào xương ức, cổ tay cô bé rụt lại một cách đáng lo ngại.
- Đó không phải là dấu hiệu tốt, phải không? Ông Romano hỏi. Có phải có
vấn đề gì về não không?
Elliott vẫn thận trọng:
- Vẫn còn quá sớm để kết luận. Chúng ta hãy chờ kết quả khám nghiệm.
Các kết quả đó được chuyển tới chỉ sau vài phút. Khi người bác sĩ gắn các
tấm phim chụp lên bảng đèn, anh đã nghi ngờ về điều mình sẽ phát hiện
được. Vì họ đang làm việc trong một bệnh viện đại học, nên anh để bác sĩ
nội trú đưa ra chẩn đoán:
- Chứng phù tiểu não phải không ạ?
- Chính xác, Elliott miễn cưỡng xác nhận. Vết phù ở tiểu não gây xuất
huyết.
Anh rời khỏi phòng tối để quay lại tìm bố mẹ Anabel.
- Thế nào, thưa bác sĩ? Họ đồng thanh hỏi khi vừa nhìn thấy anh bước qua
cửa.
Anh nhìn họ đầy cảm thông. Anh rất muốn trả lời họ bằng một câu nào đó
nhẹ nhàng như "mọi chuyện đều tốt đẹp, cô bé sẽ tỉnh lại bất cứ lúc nào".
Nhưng đó không phải là sự thật.
- Tôi rất lấy làm tiếc, song con gái ông bà đã bị tai biến mạch máu não và
tình trạng của cô bé rất tuyệt vọng.
Một khoảnh khắc im lìm, một thoáng yên lặng dường như kéo dài vô tận
cho tới khi hai bậc phụ huynh ý thức được tầm quan trọng của thông tin đó.
Người mẹ cố ghìm một tiếng thét còn người cha nhất định không bỏ cuộc:
- Nhưng cháu vẫn còn thở! Nó vẫn còn sống!
- Lúc này thì như vậy, nhưng cô bé có một vùng não bị phù và nó sẽ tiếp
tục phình ra khiến cho khả năng hô hấp của cháu trở nên quá tải và cô bé sẽ
ngừng thở.
- Chúng ta có thể đặt máy thở! người mẹ khẩn khoản.
- Phải, thưa bà, chúng ta có thể đặt máy thở, song điều đó sẽ chẳng thay đổi
được gì.