thuộc địa chống lại việc Nghị viện Anh ban thành các đạo luật bế quan tỏa
cảng.
Năm 1771, Dickinson trở lại cơ quan lập pháp của Pennsylvania và viết đơn
thỉnh cầu đến Vua Anh. Nhưng do thái độ phản đối việc sử dụng vũ lực, nên
ông đã mất rất nhiều uy tín. Năm 1774, vì phẫn nộ với sách lược của các
nhà lãnh đạo cách mạng vùng New England nên ông từ chối yêu cầu giúp
đỡ của thành phố Boston khi đòi họ vận động hủy bỏ Các đạo luật Không
dung thứ , dù ông cảm thông với cảnh ngộ khó khăn của thành phố này.
Sau đó, Dickinson miễn cưỡng tham gia cuộc cách mạng. Năm 1774, ông là
Chủ tịch Ủy ban Liên lạc của Philadelphia và trong một thời gian ngắn,
tham gia Đại hội các thuộc địa lần thứ nhất.
Trong suốt năm 1775, Dickinson ủng hộ phe Whig, nhưng tiếp tục đấu
tranh đòi hòa bình. Ông viết đơn thỉnh cầu đòi Vua Anh phải sửa đổi những
sai lầm và trả lời những lời kiến nghị. Cùng thời gian này, ông là Chủ tịch
Ủy ban An toàn và Tự vệ của Philadelphia và giữ chức Đại tá trong tiểu
đoàn đầu tiên ở Philadelphia trong trận đánh bảo vệ thành phố này.
Sau vụ Lexington và Concord , Dickinson tiếp tục nuôi hy vọng về một giải
pháp hòa bình. Tại Đại hội các thuộc địa lần thứ hai (1775-1776), khi đó
vẫn là đại diện cho Pennsylvania, ông đã soạn thảo bản Tuyên bố các lý do
phải cầm vũ khí (Declaration of the Causes of Taking Up Arms). Năm
1776, tại Quốc hội Pennsylvania, ông chỉ đạo các nghị sĩ tiểu bang tìm kiếm
giải pháp cho cuộc xung đột, nhưng yêu cầu họ chống lại việc tách khỏi
nước Anh.
Cho tới lúc đó, vị trí trung lập của Dickinson đã đặt ông vào phe thiểu số.
Tại Đại hội các thuộc địa, ông bỏ phiếu chống lại Tuyên ngôn Ðộc lập
(1776) và từ chối ký vào văn kiện này. Tuy nhiên, sau đó ông trở thành một
trong hai đại biểu duy nhất (cùng với Thomas McKean) tham gia quân đội.
Khi không được tái cử, ông xin từ chức Tư lệnh lữ đoàn và lui về nghỉ tại
khu trang trại ở Delaware. Cuối năm 1776, dù được tái cử vào Quốc hội